THẦN TÌNH YÊU TRONG THẦN THOẠI ẤN ĐỘ VÀ HI - LA


 Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng của con người - đó là sự giao cảm, rung động giữa những người khác giới, cơ sở gây dựng nên một mối quan hệ yêu đương và nảy sinh nhu cầu gắn bó. Ai cũng từng một lần trải qua cảm giác yêu và được yêu, cũng từng đắm say trong những cung bậc cảm xúc của tình yêu, bởi đây là một thứ tình cảm tự nhiên, tự nguyện mà mang “tính tất yếu” ở mỗi con người. “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu cũng đã có những vần thơ nói về vai trò của tình yêu với cuộc sống như: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào”. Tuy nhiên, trong thời khởi thủy, con người không lí giải tình yêu theo tư duy minh triết như vậy, mà lại có xu hướng lí giải theo tư duy hồn nhiên, ngây thơ của con người lúc bấy giờ, họ cho rằng tình yêu là do ra thần tình yêu – một đấng siêu nhiên của tiên giới đã ban phát, dùng những mũi tên màu nhiệm để gắn kết tình yêu giữa những con người, mang lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc. Và họ tôn sùng những đấng siêu nhiên ấy bằng tất cả lí trí và niềm tin. Sáng tạo ra những vị thần không chỉ là cách lí giải hiện tượng tinh thần, mà còn để tôn thờ. Điều đặc biệt nhất, đó chính là cùng một vị thần được sáng tạo bởi trí tưởng tượng của con người (thần tình yêu), cùng thực hiện một chức năng là mang lại tình yêu và hạnh phúc cho con người, nhưng ở mỗi khu vực khác nhau lại thì hình tượng của vị thần này lại được xây dựng với nét đặc trưng riêng biệt. Đó chính là sự khác biệt của thần tình yêu Kama trong thần thoại Ấn Độ và thần Eros hay Cupid trong thần thoại Hi – La.

      Trong các bộ thần thoại của dân tộc mình, hình tượng của vị thần tình yêu Kama (Ấn Độ), Eros/ Cupid (Hi – La) dù có chung chức năng, vai trò nhưng ở mỗi khu vực lại có cách xây dựng hình tượng nhân vật khác nhau, thể hiện được đặc trưng tư tưởng, tư duy văn hóa của mỗi vùng miền. Nếu ở Hi – La có nền văn hóa gốc du mục, ảnh hưởng đến tư duy của người dân nơi đây, làm nên sự phóng khoáng, cởi mở trong tư duy. Cũng do đó mà hình tượng của thần tình Cupid cũng được xây dựng độc đáo, là một đứa trẻ tinh nghịch, ranh ma hay một người đàn ông tuấn tú, khôi ngô. Khi thần tình yêu Cuppid là một chàng trai trưởng thành, khôi ngô, ta còn có thể cảm nhận được tinh thần mạnh mẽ, độc lập, quyết đoán khi chinh phục khó khăn, trở ngại của cư dân gốc du mục, một nét điển hình trong văn hóa, lối sống của người dân Phương Tây cổ đại. Thể hiện qua chi tiết thần Cupid làm trái với mệnh lệnh của mẹ Venus hay vượt qua mọi chướng ngại, thử thách để tìm lại được tình yêu với nàng Spyche.

Tư duy gốc nông nghiệp của cư dân Ấn Độ cũng được phản chiếu rõ rét qua cách xây dựng hình tượng của thần Kama. Đó là sự chuẩn mực từ nhân dạng đến phẩm cách. Chỉ qua tên gọi của vị thần Kama thôi, ta thấy được cả một tín ngưỡng văn hóa đặc trưng của cư dân nông nghiệp – đó chính là tín ngưỡng phồn thực. Bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần Linga và Yoni, người dân Ấn Độ cho rằng, nguyên nhân sinh sôi nảy nở trong trời đất là do sự phối hợp của giống đực ( purusa ) và giống cái ( prakriti ). Hai giống ấy có mặt ở khắp mọi nơi, luôn luôn tìm gặp nhau theo ý muốn tự nhiên. Nghĩa của từ Kama chính là vậy.

Tuy có sự khác nhau về tư duy và đặc trưng văn hóa của mỗi vùng miền nhưng nhìn chung, cả Kama của Ấn Độ và Cupid của Hi – La đều thể hiện được những vẻ đẹp lí tưởng về hình tượng của vị thần tình yêu, và cả hai vị thần này đều dùng sức mạnh và phép màu của mình để gắn kết những con người, mang đến cho họ tình yêu, hạnh phúc và sự gắn bó - cội nguồn của mọi sự sinh sôi. Vì vậy mà con người luôn mong mỏi nhận được mũi tên tình yêu của thần, chẳng hạn như lời mời mọc của người đời đối với thần Kama: “ Hỡi Kama! Thần có chiếc tên nhắm trúng đích. Cánh tên là sầu muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên là dục tình, mong thần xuyên qua trái tim của con người”.

     Về hình tượng cụ thể, hai vị thần Kama và Cuppid được xây dựng với những “chất liệu” hoàn toàn khác biệt, từ những chi tiết về hình dáng và vật dụng mà hai vị thần này mang theo bên người. Nhưng hình dáng và vật dụng ấy  lại có điểm tương đồng, đó là những ý nghĩa vô cùng sâu sắc, hàm chứa những tư tưởng, đánh giá của người dân  hai vùng đối với tình yêu. Thần tình yêu Cupid của thần thoại Hi – La được lưu truyền với nhiều trích đoạn thần thoại khác nhau, sự khác nhau này là về hình tượng của thần tình yêu. Trước hết, thần Cupid là một vị thần khôi ngô, cưỡi trên lưng con thiên nga, tay cầm chiếc cung bằng gỗ cây sầu bi và mũi tên bằng lá trắc bá.

Hình tượng thiên nga, loài vật mà thần Cuppid dùng để di chuyển, đó là loài chim biểu tượng của tình yêu, bởi loài chim này luôn đi theo cặp, suốt đời chung thủy với bạn tình. Biểu tượng này ý chỉ tình yêu gắn bó, thủy chung giữa hai con người. Cung tên làm bằng gỗ sầu bi, gợi nhắc đến nỗi buồn thương da diết của đôi lứa khi yêu mà phải xa nhau, đây cũng là tư vị tất yếu của tình yêu. Còn mũi tên làm bằng bằng lá trắc bá lại gợi đến sự êm ái khi mũi tên ấy bắn vào các đối tượng, đó cũng là cảm giác thăng hoa, hạnh phúc  khi con người đắm mình trong tình yêu. Lá trắc bá còn có nhiều nhánh nhỏ,  mũi tên trắc bá ấy sẽ tác động đến mọi cung bậc cảm xúc của con người, dù êm ái nhưng chỉ cần liên quan đến tình yêu, người yêu thì cảm xúc của con người cũng rất dễ bị tác động. Vì vậy mà khi yêu người ta có thể vui – buồn, sôi nổi – trầm lắng, ngọt ngào – đắng cay.

Hình tượng  thần Cupid là một đứa trẻ có đôi cánh thiên thần và bộ cung tên được làm bằng vàng, người dân Hi – La xây dựng hình tượng này như muốn nói: tình yêu của con người cũng không khác gì “trò chơi của con trẻ”, có lúc nồng nhiệt, đắm say đấy nhưng lại có những lúc giận hờn thật bâng quơ, vu vơ, chẳng cần có lí do. Vì thần tình yêu là một đứa trẻ nên có sự tinh nghịch, hồn nhiên, chỉ cần muốn thì có thể bắn mũi tên vào bất cứ đối tượng nào, nên tình yêu là không có khoảng cách, giới hạn về tuổi tác, nghề nghiệp, địa lí và cả giới tính. Và cũng sự ngẫu nhiên đó nên có không ít sự chia li, đổ vỡ trong tình yêu vì không phù hợp.

 Nếu như thần tình yêu là một người già cả thì lại khác hẳn, vì với sự trải nghiệm của mình, thì vị thần ấy sẽ lựa chọn những đôi lứa phù hợp về tính cách cũng như tình cảm, sẽ không có những đau thương, đổ vỡ. Nhưng, như vậy lại không đúng với thực tế: tình yêu vốn nhiều thăng trầm. Có lẽ đây cũng chính là cái tinh tế của người dân Hi – La khi xây dựng thần tình yêu là một đứa trẻ. Cupid có đôi cánh thiên thần là biểu tượng cho sự tự do, thăng hoa của tình yêu, nhưng cũng gợi ra sự mong manh vì chỉ cần những biến động nhỏ thì tình yêu ấy có thể cất cánh bay đi. Và cung tên của vị thần “trẻ con” này là làm bằng vàng, nên khi bắn vào trái tim con người, sẽ tạo ra vết thương rớm máu, vì yêu không chỉ có hạnh phúc, mà còn là sự trải nghiệm đầy đau khổ.

Còn thần Kama của Ấn Độ lại là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú ngồi trên chiếc xe do con chim vẹt kéo, cánh cung của thần làm bằng cây mía uốn cong; dây cung do đàn ong kết cánh lại với nhau, mũi tên làm bằng hoa xoài mềm mại. Trong đó, con vẹt biểu tượng cho sự thông minh, cho trí tuệ sáng suốt, chính sự sáng suốt này sẽ dẫn đường chỉ lối cho tình yêu để con người có thể lựa chọn và đi con đường đúng đắn, bằng phẳng nhất. Bởi tình yêu có đắm say nhưng cũng không thể đánh mất đi sự sáng suốt của lí trí. Cung tên là cây mía uốn cong, mũi tên hoa xoài, đây đều là những loại hoa thơm, quả ngọt ý chỉ tình yêu luôn mang lại cho con người cảm giác ngọt ngào, hạnh phúc. Ong cũng là loài vật biểu tượng cho tình yêu, bởi nó là sự vun vén, là những mật ngọt mà tình yêu mang lại cho con người. Thần Kama không chỉ xuất hiện một mình, mà còn dẫn theo các vũ nữ thiên thần Ápxara và các chàng trai thiên thần say đắm yêu đương Ganđacva và chúa xuân Vaxanta. Ở đây, thể hiện rõ tư tưởng gắn bó với thiên nhiên của người Ấn Độ, tình yêu nảy nở trong tự nhiên, và tình cảm của con người cũng gắn kết với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Hoa xoài, con ong, cây mía là quà tặng của mùa xuân. Thần Kama đã lấy quà tặng ấy để làm chất liệu cho thứ vũ khí kì diệu của mình. Mùa xuân đến, thần đi khắp nơi, từ đồi núi xuống đồng ruộng, từ rừng xanh lên làng mạc để gieo giống tình yêu. Thần Kama còn được ca ngợi với các chiến công chiến thắng các vị thần của chủ nghĩa khổ hạnh như: Brahma, Shiva…thể hiện quan điểm, tình yêu luôn chiến thắng khổ hạnh, có thể vượt lên mọi giới hạn, vì dù ở thời đại nào thì con người cũng mang trong mình khát vọng yêu thương, khát vọng sống hạnh phúc.

Cách xây dựng hình tượng thần tình yêu của người dân Ấn Độ và Hi – La có sự khác biệt về hình dáng, vật dụng huyền nhiệm, nhưng dù có khác biệt thì đều hướng đến khắc họa những biểu tượng tình yêu cao đẹp, thứ mà các vị thần ấy mang bên mình, và ban phát xuống nhân gian.

      Như vậy, qua sự phân tích trên ta có thể thấy, cùng một hình tượng thần Tình yêu – một sản phẩm sáng tạo, hư cấu của con người thời kì cổ đại, nhưng ở mỗi khu vực khác nhau thì hình tượng của vị thần này lại không hoàn toàn giống nhau. Tuy vẫn giống nhau về chức năng, phép màu là mang tình yêu, hạnh phúc đến cho con người, nhưng do đặc trưng tư tưởng, tư duy văn hóa của mỗi vùng miền thì hình tượng vị thần này lại có sự khác biệt nhất định, không chỉ ở tên gọi Kama (Ấn Độ), Cupid (Hi – La) mà ngay cả hình dáng, vật dụng huyền nhiệm mang theo bên mình cũng khác nhau, biểu tượng cho những khía cạnh khác nhau của tình yêu. Nhưng điểm chung là vẫn phản ánh về tình yêu, những khía cạnh, cảm xúc chân thực nhất của tình yêu. Cuối cùng, ta có thể khẳng định: sự khác biệt này tạo ra sự độc đáo trong hình tượng nhân vật thần thoại, khác biệt không tạo ra sự mâu thuẫn mà mang đến cái nhìn đa dạng, truyền tải những nội dung phong phú, mang đến ý nghĩa tinh thần không chỉ cho con người thời cổ đại mà cho cả thế hệ nhân loại ngày nay.




SINH VIÊN VỚI NHỮNG TRẢI NGHIỆM LÀM THÊM


                                      Để trang trải thêm cho cuộc sống của mình, cũng như muốn bớt đi một phần gánh nặng cho gia đình rất nhiều sinh viên hiện nay đã tham gia vào công việc làm thêm để có những khoản thu nhập riêng, họ bươn trải với rất nhiều nghề để kiếm tiền lo cho cuộc sống và học tập kinh nghiệm cho bản thân mình.
Chiều

 qua chúng tôi đã có dịp làm việc với bạn Lê Thị Lệ sinh viên K58 Văn học CLC trường ĐHKHXH và NV để khảo sát về tình trạng đi làm thêm của sinh viên  hiện nay, đa số hầu hết sinh viên của các trường đại học ngoài thời gian học tập trên giảng đường thì họ đều tìm cho mình một công việc để làm thêm.

 Đã có rất nhiều bậc phụ huynh lo lắng rằng có nên cho con em mình đi làm thêm hay không? Đó là một vấn đề mà dư luận cần quan tâm.Vậy việc làm thêm của sinh viên hiện nay là đúng hay sai? Làm thêm là một việc làm mà nhiều sinh viên hiện nay đang thực hiện, các bạn muốn trang trải thêm cho cuộc sống sinh hoạt của mình. Có rất nhiều những quan điểm về tình trạng đi làm thêm theo như thống kê tại trường ĐHKHXH và NV thì số lượng sinh viên đi làm thêm lên tới con số trên 1000 người.Việc làm thêm là một nỗi lo cho rất nhiều sinh viên vì nó chiếm khá nhiều thời gian cho quá trình học tập. Làm thêm đối với những sinh viên làm đúng những ngành nghề mà mình theo học thì đó lại là môt cơ hội để các bạn tích lũy kinh nghiệm cho công việc của mình, khi đi làm thêm các bạn có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, có khả năng giao tiếp trước đám đông họ trở nên mạnh dạn hơn điều đó là một lơi thế. Việc làm thêm còn giúp các bạn kiếm được tiền để phụ đỡ cha mẹ. Kiếm được đồng tiền làm thêm không phải dễ dàng vì vậy các bạn mới có cái nhìn đa chiều về đồng tiền và biết quý trọng đồng tiền mà mình đã làm ra.

Làm thêm còn giúp các bạn có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống, điều đó giúp cho bạn trưởng thành hơn, bạn biết tự ý thức về cuộc sống và có trách nhiêm hơn với cuộc sống của mình, sự chững chạc trưởng thành sẽ giúp bạn đứng vng trong xã hội. Nhưng để cân bằng giữa việc học và việc làm thêm là điều rất khó khăn vì nhiều cơ sở làm thêm bắt sinh viên làm việc với số lượng thời gian rất lớn, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của sinh viên. Nhiều sinh viên trì trệ việc học tập dẫn đến kết quả thấp và nợ nhiều môn học đây là hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với sinh viên .
                                

                                    Ảnh minh họa về công việclàm thêm của sinh viên

Qua cuộc nói chuyên với bạn Lê Thị Lệ chúng tôi còn được biết có rất nhiều cơ sở làm thêm chỉ mang tính chất lừa gạt, bắt sinh viên đặt tiền cọc mới cho làm, bạn Lệ là một trong những trường hợp như thế, bạn đặt cọc cho cơ sở làm thêm đó 200 nghìn đồng, hôm sau đến làm việc, bạn Lệ cho biết ông chủ của cửa hàng đó nói: “Nếu em muốn đi làm thì hãy đặt cọc ở đây 200 nghìn nếu không bọn anh sẽ tuyển người khác” lúc đó do hoàn cảnh của bạn rất khó khăn nên bạn đã quyết định đặt cọc ở đó, hôm sau đến làm việc thì cơ sở đó đã biến đâu mất đây quả thật là một sự lừa đảo thật trắng trợn, tiền trọ tiền ăn, tiền sinh hoạt là ở số tiền đã đặt cọc vậy bạn ấy sẽ sống ra sao? Cuộc sống sinh viên đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, đây cũng là một nỗi lo của rất nhiều sinh viên đi làm thêm hiện nay. Để kiếm thêm đồng tiền trang trải cho cuộc sống, bạn đã tìm đến rất nhiều những cơ sở làm thêm khác nhau bạn Lê Thị Lệ là sinh viên năm nhất của trường ĐHKHXH và NV đã  tâm sự: “Tôi đã đi rất nhiều những cơ sở làm thêm qua thông tin trong tờ rơi được phân phát ở cổng trường từ việc gia sư, bán shop quần áo hay đi giao bán sim ở cổng chợ Phùng Khoang, phát tờ rơi cho nhiều siêu thị, rất nhiều nguồn làm thêm nhưng không có một cơ sở nào đáng tin cậy, bạn mới chỉ là sinh viên năm nhất thôi những kinh nghiệm trong cuộc sống làm sao mà đã hiểu hết được, nhiều mối nguy hiểm lừa lọc luôn vây quanh bạn, do gia đình có hoàn cảnh khó khăn muốn phụ giúp thêm cha mẹ một phần nào đó bạn đã quyết định đi phát tờ rơi cho siêu thị SaPoMart, thời gian làm việc thì cực kì vất vả sáng từ 6h đến 12h trưa, chiều từ 1h tới 6h tối vậy thời gian học của bạn là vào thời gian nào, công việc thì vất vả nhưng tiền lương thì chẳng được bao nhiêu, với việc bạn đang sống ở Hà Nội như thế này thì con số 80 nghìn là vô cùng bé. Bạn đã cố gắng điều tiết thời gian học tập và thời gian đi làm thêm, nhưng điều đó thật là khó khăn khi các cơ sở làm thêm đó không cho phép nhân viên của mình nghỉ quá số giờ quy định, bạn đã tâm sự rằngViệc điều tiết thời gian cho việc học với việc làm thêm là rất khó khăn,đã có lúc tôi nản trí muốn bỏ công việc làm thêm để tập trung cho việc học nhưng hoàn cảnh gia đình tôi không cho phép tôi từ bỏ công việc làm thêm đó”.

Ngoài ý kiến của bạn Lệ chúng tôi còn thăm dò  rất nhiều những ý kiến từ các sinh viên khác về việc điều tiết thời gian học với thời gian làm thêm: Bạn Nguyn Thị Khánh Hòa sinh viên K56 Hán Nôm trường ĐHKHXH và NV (ĐH Quốc Gia Hà Nội) cho biết “ tôi đã là sinh viên năm 3, tôi đã tham gia vào công việc làm thêm từ năm thứ 2, trong thời gian đi làm thêm tôi đã mất quá nhiều thời gian cho việc học và tôi không thể điều tiết tốt thời gian học tập của mình được”. Chúng tôi còn làm việc với những bậc phụ huynh có con em đi làm thêm họ phân vân rằng có nên cho con mình đi làm thêm không bà Dương Thị Nhung phụ huynh của bạn Lê Thị Lệ cho biết “ tôi đồng ý cho con mình đi làm thêm để ra ngoài xã hội con tôi trưởng thành hơn, nhưng bà lại nhấn mạnh rằng: “nhưng việc học tại thời điểm hiện tại vẫn phải đặt lên hàng đầu không được quên đi việc học. Chỉ với 2 ý kiến tham dò của các bạn sinh viên thôi nhưng chúng tôi đều thấy một điểm chung rằng việc làm thêm tốn khá nhiều thời gian cho việc học tập của sinh viên, điều đó là một cảnh báo đối với rất nhiều sinh viên đang tham gia vào công việc làm thêm mà quên đi nhiệm vụ chính của mình là học tập.

 Qua thời gian đi làm thêm bạn Lệ chia sẻ: “việc làm thêm là không hề đơn giản như ban đầu tôi nghĩ, đúng là có bước chân đi mới hiểu hết được sự đời, mọi viêc trên đời thực sự là không hề  dễ một chút nào”, bạn Lệ đã tốn rất nhiều thời gian cho công việc làm thêm điều đó dẫn đến kết quả học tập của bạn không được như ý muốn .Đã có rất nhiều sinh viên ra trường không đạt được bằng như mình mong muốn vậy nguyên nhân là do đâu ? Với một xã hội phát triển như hiện nay khi ra trường mà không có bằng giỏi, bằng khá trong tay thì các bạn sẽ định xin việc cho mình như thế nào, đây là một điều rất thit thòi đối với các bạn.Vậy nên khi còn đang là sinh viên các bạn hãy đặt việc học tập của mình nên hàng đầu vì làm thêm nó là con dao hai lưỡi nên các bạn hãy cẩn thận. Như vậy việc làm thêm chỉ là biện pháp trước mắt thôi. Mỗi sinh viên hãy xem xét kĩ lưỡng công việc làm thêm của mình để cân bằng thời gian học tập vì con đường học tập mới là quá trình lâu dài đối với các bạn, nó làm nền tảng kiến thức để sau này các bạn có một công việc hoàn chỉnh. Mỗi sinh viên hãy nhớ rằng sẽ còn rất nhiều cơ hội nữa để các bạn học tập và va chạm vì vậy hãy xem xét kĩ trước mọi quyết định đi làm thêm của mình.


Cha Mẹ nên làm gì trước những “nổi loạn” của con?

Vào tuổi dậy thì có rất nhiều bạn trẻ trở nên nổi loạn, tính tình thay đổi khó hiểu, cục cằn, nhiều bạn còn yêu đương và ăn trộm tiền của gia đình. Khi bố mẹ đánh mắng thì sẵn sàng cãi lại, thậm chí đánh lại sau đó bỏ nhà đi. Sự thay đổi tâm lý đó đã được những chuyên gia tâm lý hàng đầu trong ngành Tâm lý học giải thích.

Trong giai đoạn tuổi dậy thì nhiều bạn trẻ có xu hướng xa rời bố mẹ:

Chị Nguyễn Thị Định ở Thái Nguyên có con gái Hạnh 16 tuổi. Hoàn cảnh của gia đình ổn định, con chị là một người khá ngoan hiền và nghe lời cha mẹ, nhưng khi đến giai đoạn này Hạnh bỗng trở nên xa rời bố mẹ, em không còn gần gũi hay tâm sự với bố mẹ nhiều như trước nữa. Do công việc của anh chị rất bận rộn nên không để ý đến con, chính vì vậy những thay đổi bất thường của con làm cho họ trở nên choáng ngợp và bất lực trước điều đó.

Giai đoạn đầu khi phát hiện những thay đổi của con, gia đình chị Định chỉ nghĩ rằng “con đang tuổi lớn chắc con cần khoảng không gian riêng”, bởi thế chị Định lại càng không quan tâm và hỏi han chia sẻ với con, điều đó làm cho khoảng cách giữa con và anh chị ngày càng xa cách.

Nhưng rồi những biểu hiện Hạnh ngày càng rõ hơn, khi chị Định nói chuyện với Hạnh thì em lại không lắng nghe, những nhắc nhở của bố mẹ em đều cho ra ngoài tai, không quan tâm về những điều bố mẹ nói, sự ngang ngạnh, bướng bỉnh đó đã xuất hiện trong con người em.

Những công việc mà bố mẹ giao, em không hoàn thành, lúc nào cũng chỉ chăm chú vào chiếc điện thoại. Do anh chị hay có việc bận nên đã sắm cho Hạnh một chiếc điện thoại riêng để tiện khi có việc cần thiết thì gọi. Trước đây chiếc điện thoại chỉ để ở nhà, nhưng nay Hạnh mang đến lớp học và sử dụng nó thường xuyên hơn, những hành động lén lút của Hạnh đã để bố mẹ nghi ngờ, khi bố mẹ có hỏi về những hành động đấy thì Hạnh lấy ra hàng trăm lý do: “ con mang để tra tài liệu, con sợ bố mẹ gọi ”….những hành động ấy đã làm cho bố mẹ tạm tin vì trước đây Hạnh là một người không bao giờ biết nói dối.

 Một thời gian dài trôi qua Hạnh không hề để ý đến học tập, những bài kiểm tra của em thì toàn được điểm thấp và bị phê là cần phải cố gắng chăm học hơn. Khi ở nhà bố mẹ trách mắng thì em đều cãi lại và hành động ngược lại với những gì đã được nhắc nhở. Chính những điều đó khiến chị Định không khỏi lo lắng.

 Khi trường tổ chức họp phụ huynh, chị Định đi họp mới phát hiện ra con mình đang yêu và hay bỏ học, lúc ấy chị mới ngộ ra về những thay đổi của con, về nhà không kiềm chế được cảm xúc của mình chị đã đánh mắng con, Hạnh cãi lại và bỏ nhà đi theo người con trai đó. Chị còn nghe tin hai đứa dẫn nhau vào nhà nghỉ ,chị đã tìm đến tận nơi và lôi con về, khi về nhà hai người vẫn quát mắng, đánh đập và răn đe, Hạnh không sợ mà còn trở nên gan lì hơn.

 Sau tất cả những sự việc đã xảy ra chị biết được những điều con làm là sai, nhưng chị không tìm được cách nào để dạy dỗ con cho hợp lý bởi có đánh mắng đi nữa thì cũng vô tác dụng, chính vì vậy dường như chị Định bất lực và chỉ đứng đằng sau ngậm ngùi cho những hành động đó.

Những hành động trên đã được các chuyên gia tâm lý giải thích:


Theo như Phó GS, Tiến Sĩ Nguyễn Thị Minh Hằng, giảng viên trường ĐHKHXH và NV ĐHQGHN cho biết:

Vào tuổi dậy thì trẻ em có những biểu hiện xa rời bố mẹ, tính tình thay đổi là do: có sự thay đổi trong cơ thể và thay đổi tâm lý làm cho quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh mẽ. Dẫn truyền xung thần kinh nhanh và mạnh làm cho sự phát triển tâm lý chưa theo kịp.

Nguyên nhân chủ quan là do ở lứa tuổi này trẻ đang bị mất cân bằng sinh lý.
Về phía khách quan là do cha mẹ không có sự tiếp cận phù hợp.

Khi trẻ có những biểu hiện sai lệch chuẩn mực cha mẹ không nên đánh đập con, cần phải tìm hiểu tâm lý của con, tìm hiểu về phương pháp giáo dục phù hợp, dành nhiều thời gian cho con, hiểu được tâm tư nguyện vọng của con, khi phát hiện ra những hành động đó thì hãy bàn bạc, trao đổi với con, không nên đánh mắng vì điều đó chỉ tạo nên khoảng cách giữa con và cha mẹ.

Để trẻ có những thay đổi không lệch lạc với những chuẩn mực xã hội thì cha mẹ nên tạo cho trẻ một không khí trong gia đình êm ấm, hòa thuận bởi gia đình là môi trường giáo dục con trực tiếp nhất.

Khi ở lứa tuổi này nhu cầu về bạn bè rất lớn, chính vì vậy cha mẹ cần có những nắm bắt kịp thời về những thay đổi đó, và biết được những khó khăn mà con mắc phải để kịp thời khắc phục.

Cha mẹ nên hiểu, chia sẻ, ủng hộ, trao đổi với con thường xuyên, không nên áp đặt một chiều bởi sự áp đặt đó sẽ làm cho con cảm thấy không được tôn trọng.
Cần phải hiểu biết về tâm lý của trẻ, học kĩ năng làm cha mẹ qua cách giao tiếp với con, dạy con cách giao tiếp với người khác, cách đối nhân xử thế, các chuẩn mực trong gia đình, gia phong nề nếp….

Cần có những sự quan tâm và thấu hiểu cho con nhiều hơn trong giai đoạn này bởi giai đoạn này các trẻ rất nhạy cảm do sự thay đổi của cơ thể cũng như  sự thay đổi sinh lý của trẻ.


Thứ văn học tốt khơi dậy cho chúng ta thái độ phê phán và không thỏa hiệp với cuộc sống.




“Thứ văn học tốt, trong khi tạm khuây nỗi bất an của ta thì thực ra lại làm tăng nó lên vì khơi dậy trong ta thái độ phê phán và không thỏa hiệp với cuộc sống. Thậm chí có thể nói văn học dường như làm cho con người trở nên bất hạnh hơn. Sống bất hòa, gây hấn với tồn tại, là tìm kiếm những điều không có, là tự kết án mình, lao vào những trận đánh vô ích giống như đại tá Aureliano Buendia trong Trăm năm cô đơn chiến đấu mà biết chắc mà sẽ mất hết”. ( Mario Vargas Llosa- “ Tại sao văn học?”)

Theo tôi, đây là một quan điểm khá hay về vai trò của văn học trong đời sống tinh thần của con người. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận cách phản ánh này cũng khá phiến diện và mang tính tiêu cực, bởi văn học có làm ta bình yên, hạnh phúc hơn không hay làm ta bất hạnh hơn vì khơi dậy thái độ phê phán, không thỏa hiệp với cuộc sống còn tùy thuộc vào cách tiếp nhận, suy ngẫm của từng người. Có thể đối với những người có suy nghĩ đơn giản, đời sống tinh thần lạc quan có lẽ sẽ cảm nhận được hạnh phúc từ văn chương, bởi với tinh thần ấy họ sẽ giúp họ cảm nhận được cái đẹp nhiều hơn là cái bi, và cũng ngược lại, với những con người nhạy cảm, cá tính mạnh mẽ hơn, giàu những suy ngẫm thì họ sẽ không thôi trăn trở, họ nhìn thấy ở trong văn chương những đối kháng, mâu thuẫn với hiện thực đời sống của mình, từ đó họ nhận thấy con người bất hạnh hơn trong cuộc đời vốn tưởng chừng như ngày càng tươi đẹp này.

Cảm nhận riêng của cá nhân tôi thì thấy văn chương vừa mang đến cho con người niềm hạnh phúc, khơi dậy định nghĩa về cái đẹp, những xúc cảm, rung động thầm kín, tuy nhiên nếu suy nghĩ sâu hơn, tiếp nhận văn chương trong tư thế cảm nhận có đánh giá, phân tích thì đồng thời nó cũng mang đến những trăn, hoang mang, sự vô định về cuộc sống, về sự vô minh của con người trong cuộc đời.
Tác phẩm “ I AM ĐÀN BÀ” của nhà văn Y Ban là tác phẩm truyện ngắn mang lại sự cảm nhận mang tính chất “ hai chiều”, nó vừa khơi dậy xúc động về bức tranh tình người, về nghị lực vượt lên hoàn cảnh, nhưng đồng thời cũng làm tăng lên sự bất an, sự hoài nghi về con người, trăn trở về cuộc sống, số phận của nhân vật nói riêng, của con người nói chung sau những  biến cố.
Đã có rất nhiều ý kiến trái chiều xung quanh truyện ngắn này, đã từng bị đánh giá là “ dâm thư”, mang nhiều yếu tố “sex”. Tuy nhiên,theo tôi từ những chất liệu ngôn ngữ khá xuồng xã, “phồn thực”  đã xây dựng thành công bức tranh rất nhân văn, nội dung  rất “ con người” trong đó.

Nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn hiện lên với những phẩm chất rất đáng quý- Đó là tình thương sâu sắc đối với con người. Dù khó khăn, đói nghèo bủa vây, với đàn con nheo nhóc đang tuổi ăn, tuổi lớn nhưng chính tình thương xuất phát từ tình mẫu tử thiêng liêng, chị ta sẵn sang cưu mang đứa trẻ bị bỏ rơi trên rừng, quan tâm, chăm sóc nó như thể con ruột, không màng đến gia đình đói nghèo của mình sẽ thêm một “miệng ăn” mới, gánh nặng của trách nhiệm càng đè nặng trên vai. Điều khiến ta xúc động nhất ở đây chính là thái độ xót xa, hành động ân cần, ấm áp của chị ta dành cho đứa bé xa lạ, ôm chặt vào lòng, sưởi ấm nó bằng dòng sữa ngọt lành của mình.
Tác phẩm cũng phần nào phản ánh được hiện thực mang tính thời sự hiện nay, đó là tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân, sự vô cảm, suy đồi trong nhân tính của con người khi đang tâm bỏ đi chính đứa con của mình. Khi chúng ta đang hoang mang với sự vô cảm của con người, hình ảnh người đàn bà hiện lên càng đẹp hơn bao giờ hết, tiếp thêm cho ta niềm tin về tình người, tình mẫu tử, nhắc nhở ta cái “ tốt”, cái “ thiện” vẫn luôn hiện hữu trong cuộc đời này, nó đánh động vào phần “ thiện lương” trong mỗi người.

Vì chồng, vì con, người đàn bà ấy một mình sang nơi “ đất khách quê người” với hi vọng các con được ăn no, cuộc sống bớt đói khổ. Sự nghị lực, tinh thần vươn lên đói nghèo của chị cũng rất đáng cảm phục.
Ở đây, một lần nữa người đàn bà thể hiện tình thương bất tận của mình đối với con người. Chị ta chăm sóc ông chủ bị liệt giường với một thái độ rất tận tâm, nhiệt tình, không chỉ chăm sóc về mặt vật chất, chị ta còn thường xuyên trò chuyện, tâm tình. Nhờ sự tận tâm ấy mà người chủ có những chuyển biến khá tốt, có lại được những nhận thức và dần có lại những phản ứng như người bình thường. Ta thấy được tình thương của người đàn bà tác động mạnh mẽ, đã “cứu sống” một con người tưởng chừng như đã vô vọng vì bệnh tật, và dường như lòng thương yêu con người ấy đã trở thành một loại bản năng của người đàn bà ấy.
Khi biến cố xảy ra, người đàn bà lại thể hiện sức sống vươn lên mạnh mẽ của mình, chị ta không đầu hàng số phận, không buông xuôi mà luôn cố gắng tự cứu lấy mình, câu nói cuối truyện ngắn “ I AM ĐÀN BÀ” thể hiện được khát vọng muốn sống, được sống, được hạnh phúc của con người.
Truyện ngắn thấm đượm tính nhân văn, làm cho ta thêm tin vào con người, bài học về những khát vọng sống mạnh mẽ: Đừng bao giờ từ bỏ nếu ta chưa cố gắng hết sức mình.

Tuy nhiên, qua câu chuyện và cuộc đời của người đàn bà ta lại có thêm những trăn trở, những vấn đề cần suy ngẫm. Đó là sự chi phối của bản năng tự nhiên trong con người, hay nói cách khác là phần “ con” bên trong phần người. Phần bản năng ấy có đáng lên án hay không?
Truyện ngắn nhắc nhở, cảnh báo ta về sự tồn tại của một loại nhu cầu, đó là nhu cầu bản năng.Những nhu cầu thuộc về bản năng của con người: nhu cầu ăn uống, sinh tồn và nhu cầu tình dục vốn là tất yếu, chính đáng, không hề xấu, vì nó xuất phát từ những mong muốn rất chân thực của con người. Nhưng khi nó vượt qua sự chi phối, kiểm soát của lí trí thì tất yếu gây ra những rắc rối, những phiền hà, rắc rối không mong muốn.
Trong cuộc sống trở nên văn minh hơn thì ta cần có sự điều tiết cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh. Hòa hợp giữa những nhu cầu, mong muốn mang tính chất bản năng với khả năng thực hiện vào thực tiễn sẽ đem đến cho con người sự thỏa mãn, hạnh phúc hơn trong cuộc sống
Ở đây, nhu cầu về tình dục, những khát khao ái ân thể xác đã khiến người đàn bà gây ra hành động mù quáng_ tư thông với ông chủ của mình. Chính hành động nông nổi, thiếu  sự kiểm soát này đã đẩy người đàn bà vào những rắc rối lớn với bao đau khổ, ê chề. Có thể nói, đó là một tình cảnh đầy bi kịch.

 Trong những định kiến có phần khắt khe của xã hội về tiết hạnh, phẩm giá của người phụ nữ, đặc biệt là ở xã hội phương Đông, hành động của người đàn bà sẽ bị lên án gay gắt, đánh giá là lăng loàn, là không thể chấp nhận được vì nó đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức, với thuần phong mĩ tục về sự tiết hạnh của người phụ nữ. Có thể thấy, những định kiến xã hội vẫn đang rất khắt khe, có phần bất công đối với những nhu cầu thuộc về bản năng của con người ( nhất là nhu cầu về tình dục), càng đặc biệt hơn khi nó xuất phát từ những người đàn bà. Điều này thể hiện rõ nét trong chính cách đối xử có phần gay gắt, vô tình của bà chủ nhà với chị ta, không nghe những lời phân trần, giải thích mà  buộc tội, kiên quyết bắt giam vào tù, mong muốn sự trừng phạt của pháp luật .

Tuy nhiên, bản năng về tình dục là phần bản năng rất chính đáng của con người, khi người đàn bà có những khát khao về tình dục và hành động để thực hiện nó là khi chị ta sống rất thật với cảm xúc, nhu cầu mình. Có thể nói, xuyên suốt truyện ngắn này, đây là lần đầu tiên chị ta sống vì mình,  hành động để phục vụ cho nhu cầu của chính mình. Hơn nữa, nhu cầu này theo tôi cũng rất “ trong sáng”, “hồn nhiên” không phải vì vật chất, tiền tài càng không phải yêu đương vụng trộm, lén lút mà chỉ là thỏa mãn cho nhu cầu bản năng.
Truyện ngắn cũng làm tăng thêm nỗi bất an trong chính những độc giả, đó là sự giải phóng bản năng trong con người. Liệu chúng ta có hoàn toàn kiểm soát được nó trong mọi hoàn cảnh, điều tiết phù hợp với những chuẩn mực, khuôn khổ  hay không? Chúng ta nên sống thật là mình hay nên ẩn lúp, che giấu những nhu cầu ấy dưới lớp mặt nạ đạo đức.

Sống thật với chính mình, nói thì dễ nhưng không phải ai cũng làm được, có đủ bản lĩnh để làm. Đi ngược lại với số đông, với những chuẩn mực, khuôn mẫu, ta sẽ trở thành đối tượng  của sự chế giếu, coi thường, thậm chí là sự xa lánh, hắt hủi. Kìm hãm, đè nén những nhu cầu cá nhân của mình, luôn sống vì người khác khiến con người trở nên đáng thương vô cùng.
 Người đàn bà trong truyện suốt đời sống vì người khác, chưa một lần nghĩ cho mình: cưu mang đứa bé bị bỏ rơi mặc những gánh nặng trách nhiệm trên vai mình; đi làm ăn xa nơi đất khách vì chồng vì con; chăm lo tận tình, chu đáo cho người chủ nhà ốm đau, bệnh tật vì trách nhiệm công việc, vì lòng thương người mà không quản những cực nhọc, vất vả. Ngay cái động lực khi chị ta bị giam trong tù chờ tòa xét xử cũng là nghĩ đến trách nhiệm với chồng, với con. “I AM đàn bà” vừa là tiếng nói cho những nhu cầu, khát vọng chính đáng, đồng thời cũng là tiếng nói trách nhiệm, nghĩa vụ của người đàn bà với gia đình mình.

Trong xã hội có một bộ phận không nhỏ những con người sống quá đề cao những nguyên tắc, tự thu hẹp mình vào những khuôn khổ, những chuẩn mực đạo đức vốn có mà khắt khe với những nhu cầu chính đáng của bản thân. Sống vì người khác mà bất công với chính mình.
Trong cuộc sống hiện thực không phải lúc nào ta cũng sống và làm theo những gì mình mong muốn, nó bị chi phối bởi hoàn cảnh, môi trường sống.  Sống không được là mình, gồng mình làm theo những việc để làm vừa lòng người khác, phục vụ cho nhu cầu của người khác mà bất công với chính mình. Đó là một sự bất hạnh. Và sự bất hạnh ấy là do con người tự mang đến.
Người đàn bà trong tác phẩm " I AM đàn bà" cũng vậy. Luôn sống vì chồng, vì con, hết lòng với công việc mà mang đến cho mình bao nhiêu những khổ cực, chuân chuyên, sự cô đơn lạc lõng giữa đất người, chưa 1 lần sống vì mình, luôn đè nén, hi sinh những nhu cầu, mong muốn của bản thân vì chồng con, vì người khác. Nhu cầu bản năng bị đè nén thì nó vẫn tồn tại và ngày một lớn lên. Đến những hoàn cảnh nhất định tất yếu nó sẽ bùng nổ vượt ra tầm kiểm soát của lí trí. Đó là khi người đàn bà ấy bắt đầu có ý thức sống vì mình, là sự thúc giục của những khát khao giao cảm, khát khao hạnh phúc. Nhưng sự nông nổi của hành động và sự đa nghi đề phòng của người chủ đã đẩy chị ta vào tình thế đầy bi kịch. Bẽ bàng, tủi nhục, đau khổ. Muốn minh oan cho mình nhưng rào cản ngôn ngữ, sự vô tình của hoàn cảnh đã tạo nên một bức tường vô hình trong khát khao mãnh liệt tự cứu mình, cuối cùng chị ta chỉ có thể thốt  lên bốn câu đầy đau đớn, ám ảnh " IAm đàn bà"
Sống với bản năng chính đáng cũng chính là hành động gây ra sự xung đột với cuộc đời, với định kiến xã hội. Khi con người bị xã hội lên án, quay lưng là khi con người lâm vào bi kịch tinh thần khủng khiếp nhất: đó là sự cô độc, lạc lõng đến đáng sợ.

Sự trăn trở, khắc khoải của người đọc còn ở chính ở những dự đoán về tương lai đầy éo le của người đàn bà. Nếu người đàn bà ấy được minh oan thì sao? Và nếu bị kết tội thì sẽ như thế nào. Dù kết quả có như thế nào theo tôi thì đều là bi kịch.

Nếu minh oan, được rửa sạch tội, người đàn bà ấy trở về quê hương cái nghèo, cái đói vẫn bủa vây, biến cố cuộc đời sẽ để lại trong chị những vết sẹo nhức nhối, mang theo nỗi mặc cảm, tủi nhục đến suốt đời. Ở đây tôi không phán xét hành động tư thông với ông chủ của người đàn bà là đúng hay sai. Dù là người có sức sống tâm hồn mạnh mẽ nhưng nếu nhìn cách chị ta hết lòng hi sinh vì chồng con, luôn sống vì người khác thì chị ta cũng khó có sự thanh thản trong tâm hồn, sẽ là luôn tự trách mình, suốt đời sống trong những day dứt, đau khổ của chính mình.
Trong xã hội chị ta đang sống, nhất là những vùng nông thôn nghèo, định kiến xã hội nghiệt ngã hơn bao giờ hết, mọi người sẽ khó chấp nhận một người đàn bà "hư hỏng" ,  phản bội chồng con. Chị ta sẽ phải đương đầu với những lời đàm tiếu, sự dè bỉu, coi thường. Dù mạnh mẽ đến đâu thì chị ta cũng không tránh được những tổn thương tinh thần.  Và nếu người chồng không phải là người biết cảm thông, biết tha thứ thì chị ta sẽ lâm vào bi kịch lớn nhất cuộc đời mình, đó là sự tan vỡ hạnh phúc gia đình, động lực sống quan trọng nhất không còn. Chị ta sẽ trở thành người đáng thương, bất hạnh nhất.
Còn nếu chị ta bị kết án, bị bắt giam, thì sự u tối của bi kịch sẽ tiếp tục bủa vây lấy cuộc đời, người đàn bà ấy sẽ sống trong chuỗi ngày dài đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng.
Khi đọc tác phẩm này cũng có rất nhiều cách cảm nhận, đánh giá trái chiều. Có không ít người phê phán hành vi “ vượt rào” của người đàn bà là sai trái, họ không  chấp nhận cách biện minh cho hành động ấy là do hoàn cảnh, do môi trường tác động. Cách đánh giá này không phải là không có lí, bởi dù có biện minh là do sự chi phối của bản năng con người thì hành động của chị ta cũng đã là một sai lầm, chị ta là người tạo ra bi kịch nên những đau khổ mà thực tại chị ta đón nhận là một tất yếu không thể thay đổi, đó là sự trừng phạt cho sự nông nổi, mù quáng.
 Nhưng theo ý kiến cá nhân tôi, hành động của người đàn bà đáng thương hơn đáng trách. Cuộc sống xa quê, cô đơn, buồn tủi nên khi nhận được sự quan tâm dù là nhỏ nhất, mơ hồ nhất cũng sẽ có những rung động nhất định. Hơn nữa, chị ta là đàn bà nên vẫn có những khát khao hạnh phúc, mong muốn được yêu thương, vẫn có nhu cầu được thỏa mãn nhu cầu về thể xác. Có thể thấy người đàn bà ấy đã rất nhiều lần kìm nén, nhắc nhở, kiểm điểm mình trước  những ham muốn, nhu cầu của mình khi chứng kiến những “ phản ứng” sinh lí của người ông chủ, nhưng có lẽ càng cố kìm nén thì những ham muốn ấy càng lớn lên. Và sự bùng phát của ham muốn ấy đã vượt ra khỏi sự kiểm soát của lí trí, hành động của chị ta diễn ra trong trạng thái không hoàn toàn tỉnh táo. Con người không ai tránh khỏi những sai lầm, đó là những hành động không được lí trí kiểm soát, dù chỉ vô tình thực hiện song nó cũng đã mang lại nhiều hậu quả khôn lường. Do đó, tôi nghĩ chị ta đáng cảm thông hơn đáng trách.
Nhà văn Y Ban không đặt tên cho nhân vật đó là một dụng ý nghệ thuật độc đáo. Cái nhà văn đề cập đến ở đây không phải là một số phận cụ thể nào cả mà là số phận chung của rất nhiều những thân phận người trong xã hội này. Họ đều là nạn nhân của đói nghèo, bị đói nghèo đẩy đến chân tường của bi kịch.
Như vậy, I AM đàn bà mang lại cho ta niềm tin vào con người, niềm tin vào cuộc sống; đem đến những xúc động về sự ấm áp, vĩ đại của tình người, mang lại những trải nghiệm, bài học sâu sắc về nghị lực sống, bản lĩnh, khát khao mãnh liệt vươn lên số phận, giải phóng mình khỏi những khó khăn. “I am đàn bà” là bức tranh thật đẹp về con người, tình người, về sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn con người. Nhưng chỉ cần suy ngẫm sâu hơn một chút, tự đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật ta sẽ có cảm nhận hoàn toàn khác biệt, đó là một cuộc sống, một số phận đầy bi kịch, nó bủa vây cuộc sống con người, vô tình mang đến những nỗi đau, những vết thương tinh thần nhưng không bao giờ thôi nhức nhối.
Đó là cảm giác hai chiều đối lập khi đọc tác phẩm này. Và có lẽ, tác phẩm này nói riêng, các tác phẩm văn chương khác nói chung, một mặt nó làm cho con người ta thêm lạc quan, thêm niềm tin, nghị lực, giúp ta thấy mình hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Nhưng đồng thời nó cũng  chỉ ra những bất hạnh, đau khổ của con người trong cuộc đời. Minh chứng sống động, chân thật cho con người thấy mình bất hạnh như thế nào, nhỏ bé, vô minh như thế nào trong cuộc đời này. Nó gợi ra những nhiều vấn đề cần suy tư, trăn trở hơn cho độc giả, đôi khi mang lại những bất an, hoài nghi; những cảm nhận tiêu cực, cái nhìn bi quan về cuộc sống, khơi dậy thái độ phê phán, bất đồng, không thỏa hiệp với cuộc sống. Sống hoài nghi, bất an về cuộc sống, đó không phải là làm cho con người trở nên bất hạnh hơn hay sao

                                                                                                        





Truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi” của Akutagawa Ryunosuke và truyện ngắn “Đi mãi trên đường của Phan Triều Hải .


Văn học là loại hình nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu. Mọi đề tài cũng như cảm hứng của văn học đều bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống, thông qua sự sáng tạo, hiểu biết, tài năng của nhà văn, văn học phản ánh một cách trực tiếp hoặc hình tượng hóa hiện thực, những khía cạnh khác nhau của cuộc sống nhằm truyền tải những vấn đề, quan điểm, ý niệm hay triết lí nhân sinh nào đó về cuộc sống, con người.
Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống mang tính chủ quan, còn sự thể hiện, phản ánh vào các tác phẩm văn chương lại mang đậm màu sắc cá nhân, thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Vậy, trong văn chương có phải lúc nào cũng đảm bảo được “tính chân thực” tuyệt đối của hiện thực hay không?  Và nếu không thì những tác phẩm như vậy có ý nghĩa gì và mang lại lợi ích gì cho con người?
Để trả lời câu hỏi này, ta xét trong một trường hợp cụ thể, tác phẩm “ Bốn bề bờ bụi” của Akutagawa Ryunosuke được xem là một tác phẩm thể hiện sự hoài nghi của con người vào sự thật tuyệt đối, thậm chí là sự bất lực của con người trong việc đi đến cùng của sự thật.
Con người được xem là loài sinh vật có khả năng chinh phục mạnh mẽ nhất, vậy vì sao trong tác phẩm này lại thể hiện sự hoài nghi, bất lực của con người trong tìm kiếm sự thật? Nó có chân thực không, hay chỉ là sự hư cấu, tưởng tượng của tác giả?
Ngay trong phần mở đầu của truyện ngắn, từ những lời khai của các nhân chứng trong một vụ án mạng đã gợi ngay cho người đọc liên tưởng đến những câu chuyện mang màu sắc trinh thám của Shelock Homel. Tuy nhiên, theo đến cùng mạch truyện, Akutagawa Ryunosuke không thỏa mãn độc giả bằng một kết quả mang tính bất ngờ, đột phá như trong các câu chuyện trinh thám thường thấy mà tạo ra sự hoài nghi với một cái kết bị bỏ ngỏ. Càng đi sâu vào câu chuyện thì sự tò mò, mơ hồ càng đậm đặc, chân tướng sự việc không những không được làm sáng tỏ mà những chi tiết, những lời thú tội đầy bất đồng, mâu thuẫn của các nhân vật càng làm cho độc giả thấy “ rối loạn”, không hiểu việc gì đã xảy ra, và băn khoăn rốt cuộc lời khai của ai mới là sự thật, hướng khai thác của truyện ngắn không theo lí tính mà theo cảm tính, chủ quan.
Sự xuất hiện của nhiều nhân vật trong một dung lượng truyện ngắn là yếu tố làm nội dung cốt truyện bị mờ hóa, chân tướng của sự thật trở nên mơ hồ, bởi,  người kể chuyện càng đông, càng nhiều điểm nhìn thì sự kiện càng bị mờ hóa, câu chuyện càng rối rắm. Truyện ngắn “Bốn bề bờ bụi” có đến tám nhân chứng đóng vai trò kể chuyện, trong đó gồm người kể chuyện giấu mặt với vai trò khá mờ nhạt, người này chỉ làm công việc sắp xếp, thông báo tối thiểu nhất về lời khai của các nhân vật; Lời khai của các nhân chứng, những người ngoài cuộc là người đốn củi, nhà sư, người sai nha và bà mẹ của nhân vật người vợ với quan kiểm soát.
Lời khai của những người ngoài cuộc không làm sáng tỏ hay cung cấp được những chi tiết nào liên quan đến vụ án mà chỉ đơn giản làm cho độc giả biết thêm những thông tin, đặc điểm về các nhân vật chính như: hình dáng, tính cách, xuất thân… không ai trong số họ biết được tường tận của sự thật vụ án vì họ chỉ thấy kết quả cuối cùng, không tham gia vào diễn biến sự việc, cùng với đó là những suy đoán cảm tính, họ chỉ dựa vào những gì họ biết trước đó, và sự chứng kiến trước hoặc sau khi vụ án xảy ra mà kể lại, và dù nói ra hay không thì họ đều nghiêng về suy đoán rằng kẻ giết người nhất định là tên trộm, tuy nhiên lại không hề có căn cứ nào. Do đó, chân tướng vụ việc vẫn là một câu hỏi.
Khi xuất hiện lời khai của những người trong cuộc gồm: tên trộm, người vợ, người chồng, người đọc có cơ sở để tin rằng chân tướng rồi sẽ hé mở, nhưng thực tế lại trái ngược với suy nghĩ, lời khai, lời thú tội của các nhân vật này hoàn toàn mâu thuẫn, tạo cảm giác ta đang nghe kể lại những câu chuyện khác nhau. Lời kể của các nhân vật khá chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có sự mâu thuẫn, bất đồng. Do mỗi người có một cách kể nên dù có sự hỗ trợ của điểm nhìn bên trong thì sự thật vẫn hoàn toàn bị khuất lấp, hơn nữa còn làm cho nhận thức về vụ án rối đến cực điểm.
Và điều đặc biệt khó hiểu là họ đều tự nhận mình là hung thủ gây ra cái chết cho người chồng. Tên cướp nói rằng người chồng bị hạ thủ trong cuộc giao đấu danh dự cuối cùng giữa những người đàn ông, người vợ thì thú nhận đã giết người chồng để chấm dứt nỗi ô nhục, đau khổ cho bản thân và cho chính người chồng, còn phần hồn của người chồng thì một mực khẳng định là do anh ta tự sát sau khi đấu kiếm với tên cướp và chứng kiến sự phản bội của người vợ.
Điều này khá kì lạ, bởi trong thực tế, hung thủ giết người thường có xu hướng che giấu tội lỗi của mình bằng những bằng chứng ngoại phạm. Ở đây, các nhân vật, kể cả người bị giết ( người chồng) và những người bị tình nghi ( người vợ và tên trộm) đều tự nhận tội lỗi về mình trong tâm trạng riêng, day dứt có, dằn vặt, đau khổ có hay sự bất cần, buông xuôi. Do đó, dù có rất nhiều tình tiết đáng nghi trong lời kể, sự bất đồng trong lời khai, nhưng chỉ nhìn vào cảm xúc, thái độ, tâm trạng trong lời kể của họ thôi thì độc giả cũng đã bị cuốn hút vào những câu chuyện riêng đó, cùng với đó là sự đồng cảm, xúc động hay tình cảm thương xót cho những dòng hồi ức, tâm sự riêng tư, dù rằng họ có thể là kẻ giết người.
Trong tương quan với các thiết chế chính trị, pháp luật, vấn đề quan tâm hàng đầu trong vụ án này là làm sáng tỏ chân tướng vụ việc, tìm ra kẻ giết người và trừng phạt họ bằng những hình phạt thích đáng nhằm bảo vệ công lí, tính công bằng của xã hội. Còn văn học mối quan tâm hàng đầu lại hướng vào con người cá nhân, những xúc cảm, trạng thái riêng tư, những phần bí ẩn, lẩn khuất bên trong con người. Đó cũng là cái thế mạnh, cái nhân văn mà chỉ có trong văn học, văn học dẫn dắt độc giả vào thế giới nội tâm đầy huyền bí, phức tạp của con người để thấy được sự vận động, diễn biến của các trạng thái cảm xúc, cội nguồn chi phối mọi hành động thực tiễn, từ đó có thể nhận thức được sự thật dưới điểm nhìn của cảm xúc, tình cảm, làm cho cách nhìn nhận sự vật, sự việc bao quát hơn, nhân văn hơn, con người hơn.
Như vậy, văn học mang lại cho người đọc, người nghe những nhận thức chủ quan nhưng lại hết sức tự nhiên, chân thực.
Trở lại với truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi”, Akutagawa Ryunosuke không nhằm làm sáng tỏ chân tướng vụ việc bằng những nhận thức lí tính mà đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, những xúc cảm thầm kín của chính những nhân vật trong vụ án, tìm thấy “ con người bên trong con người”. Mục đích cuối cùng của nhà văn không hướng đến sự quy kết, khẳng định đúng- sai mà đánh động vào phần tình cảm ở độc giả, khơi dậy ở độc giả thấu hiểu, đồng cảm với nhân vật mà xa hơn là với con người trong xã hội.
Ở đây, ta không xét đến những chi tiết vô lí, những điểm đáng ngờ, mâu thuẫn của lời khai mà chỉ khai thác, phám phá câu chuyện riêng của mỗi nhân vật để xem xét, làm sáng tỏ tính chân thực trong thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt.
Tên trộm tuy có những hành động bất lương, ngọn nguồn gây ra mọi bi kịch truyện, đáng trách, đáng lên án. Tuy nhiên, xét một cách công bằng, anh ta cũng là một con người có “ khí phách” ( giao đấu công bằng với người chồng, tuyệt nhiên không giành lợi thế về phía mình), dám làm dám nhận ( thể hiện trong thái độ khẳng khái khi thú tội), cũng có những khát khao về hạnh phúc ( muốn người đàn bà ( người vợ) theo mình). Nhưng cuối cùng lại nhận lấy sự thất vọng tột độ khi đã dành chiến thắng trước người chồng nhưng người vợ của anh ta đã chạy trốn, đây là cách từ chối quyết liệt khi phải đi theo một tên trộm, cũng là người vừa mới gây ra mối ô nhục cho mình. Nhận tội trong tư thế “ hiên ngang”, tỏ thái độ sẵn sàng nhận mọi trừng phạt. Tuy nhiên, trong lời nói lại có sự buông xuôi trong tuyệt vọng, có nỗi cô đơn le lói của người vừa mới dạt dào hi vọng nhưng lại thất vọng trong cay đắng. Dù cố che giấu, cố tạo vỏ bọc mạnh mẽ nhưng  vẫn có thể nhận ra.
Ở người chồng là nỗi đau của sự bất lực ( là một người đàn ông, hơn nữa lại ở địa vị của người chồng phải chứng kiến cảnh tên trộm làm nhục vợ mình mà không thể làm gì để bảo vệ, ngăn cản), và tận cùng của nỗi đau trong tâm hồn của người đàn ông là bi kịch bị chính người vợ của mình phản bội.
Là con người sống tình nghĩa nên khi biến cố xảy ra, anh ta đã an ủi người vợ (ra hiệu bằng mắt) nhưng đáp lại anh ta lại là sự phản bội, trở mặt
của người vợ, hơn thế nữa chị ta còn muốn tên cướp giết chết mình để tự do đi theo hắn ta. Trong sự đau đớn, bế tắc đã tìm đến cái chết để kết thúc khỏi mọi đau khổ.

Người vợ thì đau khổ, ê chề vì bị làm nhục. Là người có cá tính mạnh mẽ, nhưng xét đến cùng thì chị ta cũng chỉ là một người phụ nữ nên cũng có những yếu đuối, có những nỗi sợ hãi tất yếu. Sau khi bị làm nhục, bị ô uế phẩm tiết, chị ta đau khổ, cảm thấy mặc cảm, tội lỗi với người chồng, tìm đến người chồng như tìm đến nguồn động viên, an ủi, nhưng ánh mắt khinh miệt, coi thường của người chồng đã đẩy chị ta chìm sâu trong đau đớn tột độ, bế tắc trong bi kịch của chính mình. Uất hận, tủi nhục cho thân mình chị ta đã nghĩ đến cái chết để được giả thoát, nhưng người chồng đã chứng kiến tất cả sự ô nhục ấy nên chị ta đã giết chết người chồng sau đó sẽ tự kết liễu bản thân. Tuy nhiên, vào những giây phút quyết định thì bản năng ham sống lại run rẩy trước cái chết, không có đủ can đảm để tìm đến cái chết như suy nghĩ trước đó. Chị vợ đã bỏ đi trong nỗi đau và sự dằn vặt khủng khiếp.
Trôi theo dòng hồi ức, lời thú tội của các nhân vật, tạo cho người đọc cảm giác nạn nhân duy nhất của vụ án này không chỉ là người chồng _ người bị tước bỏ mạng sống mà cả ba người đều là nạn nhân của chính mình, họ đều bị giam hãm, cầm tù trong chính sự đau khổ, day dứt của bản thân, trong tâm hồn họ chất chứa những vết thương, những nỗi đau riêng, đều rơi vào bi kịch của chính mình. Do đó, dù có là hung thủ gây ra cái chết cho người chồng đi nữa thì họ đều đáng thương hơn đáng trách.
Hình tượng “ Bốn bề bờ bụi” khá độc đáo, vừa thể hiện sự tĩnh lặng, vắng vẻ của không gian, nơi diễn ra sự việc, dường như chân tướng của vụ việc bị cái vắng vẻ của không gian “ nuốt” trọn, để sự thật mãi là một ẩn số, một câu hỏi day dứt trong lòng người. Nhưng đồng thời, cái “ tĩnh” của không gian bờ bụi cũng làm nổi bật nên cái “ động” trong sự vận động của tâm lí, cảm xúc, làm cho cái người bên trong con người hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết; nó cũng là cái bộn bề của những suy tư, những đau khổ, dằn vặt, của những nỗi niềm sâu kín bên trong mỗi nhân vật.

Đọc truyện ta sẽ thấy rối tung bởi một loạt những chi tiết bất đồng, mâu thuẫn khiến cho sự thật bị mờ hóa. Và chính sự bỏ ngỏ trong đoạn kết có lẽ là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của Akutagawa Ryunosuke, chuyển hướng quan tâm của độc giả từ chân tướng của vụ án sang thế giới nội tâm của các nhân vật, từ sự hoài nghi vào sự thật sang sự cảm thông, đồng cảm với nhân vật. Và đây không phải một câu chuyện trinh thám nên mục đích của nhà văn không phải tìm kiếm sự thật cuối cùng, thỏa mãn sự tò mò của độc giả cái mà nhà văn hướng đến là tính nhân văn, hướng đến không chỉ giá trị trong phẩm chất con người mà còn trân trọng, đồng cảm với những nỗi đau, những tình cảm sâu kín bên trong con người.
Giá trị của truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi” là ở sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Bởi mục đích cuối cùng không phải sự phán quyết, khẳng định mà là sự cảm thông, thấu hiếu đối với những phần nội tâm sâu thẳm, những tình cảm, cảm xúc rất cá nhân ở bên trong con người. Truyện ngắn cũng thể hiện được mâu thuẫn gữa con người bên trong và con người bên ngoài cũng như mâu thuẫn bên trong chính con người; sự bất lực, yếu đuổi tất yếu của con người. Đồng thời, mang đến những nhận thức, bài học vô cùng nhân văn: Hãy đón nhận mọi việc, đánh giá con người một cách nhân hậu, vị tha hơn, hãy cố hiểu họ thay vì quá dễ dãi, tùy tiện đánh giá người khác vì ta không biết họ đã phải trải qua những gì.
Sở dĩ, cùng một vụ việc dưới sự chứng kiến của cả ba người nhưng lời thú nhận của học lại khác nhau bởi mỗi người có cách nhìn nhận, đánh giá về sự việc mang tính chủ quan, và sự thật trong mỗi người không hoàn toàn giống nhau, bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: quan điểm, tình cảm, tính cách, cách tiếp nhận sự việc…Do đó, mỗi lời khai lại là sự khúc xạ tâm lí, tình cảm mang tính cá nhân.

Con người chúng ta luôn tin tưởng vào cái gọi là sự thật tuyệt đối, chân lí khách quan mà đôi khi coi nhẹ cái chủ quan, những yếu tố mang tính cá nhân để tuyệt đối, khuôn mẫu hóa mọi sự việc, dễ dàng phán xét, quy kết đúng- sai, phải- trái. Nhưng, liệu thực sự có sự thật nào gọi là tuyệt đối không? Và cái sự thực, là chân lí đó có tuyệt đối trong mọi trường hợp không?
Theo tôi, mọi sự vật xung quanh cuộc sống con người chỉ mang tính tương đối, những thứ được nhiều người công nhận thì được quy ước là chân lí, là sự thật. Tuy nhiên, bên cạnh cái chung thì vẫn tồn tại những cái cá nhân mang tính riêng biệt, ta lại thường coi cái riêng biệt là lệch chuẩn, tiêu cực, nhưng chính cái cá biệt ấy lại phản ánh chân thực nhất về cuộc sống, về con người.
Ranh giới giữa phải- trái, đúng- sai thường không rõ ràng, nên mọi sự đánh giá về sự thật, về chân lí, suy cho cùng chỉ mang tính tương đối nên cần sự cẩn trọng trong đánh giá.
Sự thật trong văn học khác với những sự thật mang tính khách quan, chân lí của khoa học, chính trị, pháp luật ở chỗ nó không đặt điểm nhìn ở sự vật và hướng vào con người, lấy con người cá nhân, cá biệt làm trung tâm để  khai thác, tìm hiểu. Mà thế giới xung quanh con người lại đa dạng, đầy bí ẩn nên “sự thật” cũng mang tính đa dạng, không phải ở dạng cố định, chân lí.

Qua truyện ngắn này ta có thể khẳng định, mọi tác phẩm văn chương đều hướng tới hiện thực, và đều mang những nội dung, giá trị rất “ chân thực” , chỉ khác ở cách thức nhà văn trình bày, thể hiện và trong cách thức tiếp nhận, tư duy ở độc giả.
Ở những tác phẩm dường như sử dụng nhiều yếu tố sáng tạo, hư cấu tạo ra sự khó hiểu, hoang mang, hoài nghi như “ Bốn bề bờ bụi” thực chất lại mang đậm tính nhân bản, cái “ thực” ở đây không nằm ở tình tiết mà nằm trong  đời sống tâm lí của con người. Đây cũng là cái tinh tế, sâu sắc, nhân văn chỉ có ở văn học, quan tâm đến những cái rất cá nhân, rất con người. Ở những tác phẩm như thế, ta có không chỉ cảm nhận được cái “ chân thực” hết sức sâu sắc mà còn nhận thức được những giới hạn , những bất lực tất yếu của con người trong cuộc đời. Con người có khả năng nhận thức, tư duy, chinh phục mạnh mẽ, nhưng trong chính đời sống cá nhân vẫn tồn tại những thứ nằm ngoài giới hạn của con người, con người vẫn phải đối diện với những bất lực, sự bế tắc, mâu thuẫn, bất đồng trong chính con người của mình
Những tác phẩm văn chương nói lên giới hạn, sự vô vọng, bất lực của con người trong cuộc đời không phải để hạ thấp, tầm thường hóa khả năng và nhận thức của con người mà là cách thức nhà văn truyền tải những thông điệp, quan điểm, bài học để con người có thể  nhận thức, suy ngẫm. Từ đó tác động đến những hành động, cách ứng xử trong thực tiễn của con người.
Qua những tác phẩm văn chương như “ Bốn bề bờ bụi” con người có cách tiếp nhận sự vật sự việc mang tính nhân văn hơn, có những hướng khai thác đa dạng, sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt quan tâm hơn đến yếu tố con người trong xử lí tình huống.
Nó nhắc nhở, hướng con người đến con người, tạo được mối đồng cảm, sẻ chia giữa những con người, tức là hướng con người đến những giá trị nhân văn, nhân bản.
Ta không thể nhìn thấy lợi ích trực tiếp, nhanh chóng của các tác phẩm văn chương mà nó có sự thẩm thấu lâu dài, bền bỉ theo thời gian.
Ý nghĩa, bài học của các tác phẩm văn chương tác động đến nhận thức của con người,từ đó hình thành nên những cơ sở chi phối suy nghĩa và ảnh hưởng đến hành động và ứng xử trong thực tiễn. Mức độ tác động của văn học đến con người cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào cách tiếp nhận của từng người.
Qua các tác phẩm, con người có thể bắt gặp hình ảnh chính mình phản chiếu trong đó, văn chương chạm đến phần phần sâu thẳm trong con người, gọi tên đúng, tái hiện sống động, chân thực những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng phức tạp, riêng tư, khó biểu đạt thành lời. Từ đó dễ bắt nhịp được với cảm xúc thực, sự đồng cảm của độc giả. Con người sẽ tìm đến văn chương như cách đối diện với chính mình, giải tỏa tâm trạng, xoa dịu nỗi đau….
Mặt khác, văn chương bắt nguồn từ đời sống, xuất phát từ những cảm xúc, rung động của nhà văn từ cuộc sống nên có thể khơi dậy những tình cảm hoặc yêu thương, phẫn nộ, bi thương…
Văn chương còn có vai trò cảm hóa con người, nâng cao tính “ thiện”, khơi dậy những phần người trong con người thông qua sự tôn trọng, đề cao những phẩm chất người.
Cụ thể trong truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi”, ta thấy tên trộm có những hành vi tàn ác, bất lương nhưng vẫn tồn tại những phẩm chất rất “ người”

Văn học là  nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỷ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu không hiểu biết, cảm nhận thực tế về con người. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học.
Văn chương nghệ thuật dù có thể hiện sự bất lực, vô minh trong thế giới này thì cái đích cuối cùng mà nó hướng đến vẫn là con người, vì con người mà sáng tạo. Do đó, văn chương nghệ thuật giàu tính nhân văn.
Bản chất của cuộc sống này vốn là hữu hạn và vô minh, văn chương đã nhận thức được điều này, bằng sự hình tượng hóa hiện thực, văn chương nhắc nhở và trang bị cho con người những nhận thức về sự vô minh ấy để con người có sự tỉnh táo, bình tâm, vững vàng bản lĩnh hơn trước những biến động của cuộc sống; an ủi, động viên con người trước biến cố, trước sự ám ảnh của cái chết, tuyệt nhiên không phải để con người suy nghĩ tiêu cực, tuyệt vọng với cuộc sống.

      Lần đầu tiên đọc truyện ngắn “Bốn bề bờ bụi” tôi đã cho rằng nó rất “ kì lạ”  bởi, nó có phần mở đầu khá hấp dẫn của những câu chuyện trinh thám, tạo ra cảm giác mong chờ, hứng thú, hào hứng dự đoán cho diễn biến, kết thúc của câu chuyện. Tuy nhiên, kết thúc lại làm tôi cảm thấy hụt hẫng, khó hiểu vì không biết mục đích viết truyện ngắn này của tác giả là gì? Phải chăng còn phần hai mà tác giả chưa viết? Xong, chính sự hụt hẫng, tò mò thôi thúc để tìm hiểu, đọc đi đọc lại tác phẩm nhiều lần. Và kết quả là tôi có những nhận thức hoàn toàn trái ngược với ban đầu, tôi dẫn hiểu nó hơn, nhận thức được phần nào ý đồ mà nhà văn truyền tải, câu chuyện với dung lượng ngắn, ngắn đến bất ngờ nhưng truyền tải được nhiều thông điệp hết sức nhân văn. Đọc truyện ngắn này, cùng với việc tìm hiểu các nhân vật chính, tôi bỗng nhớ đến một câu nói của nhà văn Nam Cao trong tác phẩm “ Lão Hạc” và thấy thấm thía hơn bao giờ hết:  “ Chao ôi! đối với những người quanh ta, nếu như ta không cố tìm và hiểu họ thì ta chỉ thấy họ là những người gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ cho ta tàn nhẫn, không bao giờ thấy họ là những người đáng thương và không bao giờ ta thương”






Cảnh đời éo le của ông lão nuôi vợ liệt giường và đứa con u não.

Trong xóm nhỏ của làng Hoàng Mai, xã Tân Khánh, Phú Bình, Thái Nguyên không ai không xót thương cho hoàn cảnh của gia đình ông Dương Văn Nhu. Đã đến tuổi gần đất xa trời nhưng ông không được hưởng cuộc sống tuổi già bên con cháu như những người bình thường khác mà vẫn phải nai lưng lo từng bữa ăn hàng ngày và thuốc thang điều trị bệnh cho vợ và con.

Dù đã hơn 70 tuổi nhưng ông vẫn là lao động chính trong nhà, ông Nhu tâm sự nhiều lúc thấy nản chí và tuyệt vọng nhưng là người duy nhất còn lại trong gia đình nên hàng ngày dù đã hơn 70 tuổi nhưng vẫn phải cố gắng làm việc chắt chiu từng đồng với ước mong để kéo dài thêm sự sống của vợ và con của mình.

Ông Dương Văn Nhu là một cựu chiến binh đã về hưu, ông đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Năm 1966 theo tiếng gọi của Tổ Quốc ông đã tham gia vào nhập ngũ. Trải qua giai đoạn chiến tranh khốc liệt khi đất nước được giải phóng ông đã gặp bà Nguyễn Thị Thúy một cựu thanh niên xung phong, hai người se duyên với nhau và sinh được 5 người con. Tất cả 4 người con đã yên bề gia thất,  chỉ duy nhất người con trai thứ 2 chưa lập gia đình, nhưng tất cả đều không được khá giả, vẫn phải chật vật lo cho cuộc sống hàng ngày, nên chỉ giúp ông được phần rất nhỏ. 

Khó khăn dồn dập xảy ra với gia đình ông, khi hai người kết hôn trong cảnh nghèo đói, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, cố gắng dựng được một ngôi nhà 4 gian tạm bợ chỉ được chát bằng đất thì năm 1979 nhà ông bị cháy, ngọn lửa đã thiêu trụi đi tất cả những đồ đạc trong nhà, những giấy tờ quan trọng và bao huân huy chương cao quý mà nhà nước đã trao tặng cho ông.

Trải qua bao năm tháng sống trong cảnh nghèo đói, hai người chỉ biết làm lụng để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống hàng ngày, nguồn kiếm tiền duy nhất của gia đình ông là từ nông nghiệp, chăn nuôi được con lợn con gà khi bệnh tật thì cũng mất trắng. Năm 2001 vợ của ông bị tai biến, từ đó bà đã trở thành một người bại liệt, mất khả năng lao động, không thể giúp ông trong việc xây dựng kinh tế gia đình nữa. Khó khăn chồng chất khó khăn khi nguồn lao động chính duy nhất trong gia đình lúc này là ông, những ngày trời mưa bão ông vẫn phải đi kiếm tiền, tuổi đã già sức khỏe của ông cũng yếu nhưng ông không còn thời gian để lo cho chính bản thân mình.

Gia đình ông luôn cố gắng hết sức có thể để có tiền chữa bệnh cho bà, chữa chạy trong suốt 15 năm bà vẫn không khỏi mà còn bị lại, đến nay bà nằm liệt giường và phải thở nhờ oxi, sự sống đang thoi thóp từng ngày. Cuộc đời thật éo le khi gia đình bà liên tiếp phải trải qua những bất hạnh này tới bất hạnh khác. Bao nhiêu tiền kiếm được cũng chỉ để chi trả cho việc chữa bệnh, có khi túng thiếu phải đi vay mới có tiền mua thuốc, mua gạo...

                      Hình ảnh bà Nguyễn Thị Thúy nằm liệt trên giường thở oxi

Gia đình đang lo chạy tiền để chữa bệnh cho bà thì người con trai phát hiện bị u não, lúc này kinh tế gia đình ông kiệt quệ, không còn gì để trông mong, những của cải còn lại cũng bị bán đi để có tiền chữa bệnh cho bà và con.  Lo kiếm tiền cùng bố trang trải cho gia đình người con trai của ông đã ngoài 30 tuổi vẫn chưa lập gia đình, làm việc kiệt sức cùng với những áp lực cuộc sống anh trở nên tự ti, bản thân mang bệnh tật không dám tìm kiếm lấy hạnh phúc của riêng mình. Mới phát hiện bệnh tháng 9 vừa rồi khi trong người có nhiều biểu hiện lạ, ăn vào nôn ói, người trở nên xanh xao, động kinh. Đi khám tại bệnh viện Việt Đức Hà Nội các bác sĩ chuẩn đoán anh Dương Văn Quỳnh ( Con trai thứ 2 của ông) mắc bệnh u não, thật xót xa cho hoàn cảnh của gia đình ông. Hiện nay chi phí cho ca mổ của anh cũng lên tới tầm 70, 80 triệu, nhưng do bao nhiêu tiền bạc cũng lo cho mẹ hết nên không còn có tiền để chữa trị cho anh, sống qua ngày với bệnh tật bên cạnh, không biết tới bao giờ anh Quỳnh mới có tiền đi mổ?

Thấy được hoàn cảnh khó khăn của gia đình, bà con hàng xóm láng giềng cũng đến thăm hỏi và động viên gia đình lúc hoạn nạn, chính quyền địa phương cũng góp ít chi phí để chữa bệnh cho vợ và con của ông. Hiện nay Bà Nguyễn Thị Thúy được chính quyền chu cấp cho chi phí người khuyết tật là 600 nghìn đồng/ tháng, nhưng với số tiền ít ỏi đó cũng chỉ đủ chữa trị trong dăm bảy ngày.

Khi nói chuyện với ông, chúng tôi thấy được những lời nói nghẹn ngào từ trong tim. Ông chia sẻ: “ Tôi chỉ mong cho vợ và con tôi mau khỏi bệnh, nhưng giờ tiền bạc trong gia đình cũng hết, tôi không biết phải xoay sở như thế nào?”.

Hình ảnh ông Dương Văn Nhu đang chia sẻ về bệnh tình của vợ và con
         Sống cả đời vất vả vì vợ vì con, người đàn ông này không lúc nào được hạnh phúc khuôn mặt luôn mang những nỗi u sầu, ước vọng duy nhất của ông lúc này là có tiền chữa trị cho vợ và con của mình. 

 Trao đổi và nói chuyện ông Nguyễn Văn Chung hàng xóm của ông Nhu cho biết: “gia đình bác gặp rất nhiều khó khăn, tiền trang trải mua thuốc không có, nhà cửa chỉ trông mong vào mấy sào ruộng, do hoàn cảnh gia đình tôi không có, tôi chỉ biết động viên về mặt tinh thần cho bác qua khỏi giai đoạn khó khăn này, tôi mong các cấp chính quyền quan tâm, hỗ trợ thêm phần nào kinh phí đến hoàn cảnh của gia đình bác”.





NP- Banana Yoshimoto cuốn tiểu thuyết của sự sống và cái chết.


Dưới một không gian chặt hẹp của cuộc sống đời thường, các nhân vật có những mối quan hệ chằng chéo với nhau, những mối quan hệ đó đã gây ra những hướng đi không có lối thoát khiến cho các nhân vật chỉ còn cách tìm đến cái chết Bố của Sui khi phát hiện ra sự thật cũng đã tự sát, để tránh khỏi những nỗi day dứt đang dày vò trong tâm can của nhân vật này. Nhân vật Soji là một người dịch giả khá thành công, nhưng trong quá trình dịch, anh ta đã tự sát… Có thể thấy rằng các nhân vật trong tác phẩm không phải chết do bệnh tật mà tất cả đều do tự sát, trong không gian chặt hẹp của cuộc sống họ không tìm thấy lối thoát cho chính mình, mà nỗi cô đơn và những tổn thương tinh thần đó đã đè năng lên con người của họ khiến họ quyết định kết liễu cuộc đời của mình.
 Đến Sui khi cô cảm thấy mệt mỏi về cuộc sống chặt hẹp, cô đã có quyết định tự tử, mọi đam mê và tình yêu đang rằng xé lấy tâm hồn của cô:“Tài năng ư, sự hấp dẫn ư, chúng chỉ là những thứ nuốt chửng chính bản thân kẻ đang mang chúng mà thôi. Rồi kẻ ấy sẽ bị xô đẩy, dập vùi giữa dòng người nào đó, nhỏ nhoi và chết gục. Thế nào rồi cũng vậy.” Trước những đau đớn của cuộc sống cô đã có những lối suy nghĩ rằng chết đi sẽ làm cho tâm hồn được thanh thản:  “Ta sinh ra để làm gì? Chỉ để làm như thế này ở đây thôi sao? Mọi chuyện với Otohiko vậy là đã kết thúc rồi. Đã kết thúc. Sau biết bao ngày đằng đẵng. Cái tâm trí tối loạn, tơi bời như những nét vẽ nhằng nhịt của Sui, đang dần tụ lại trong từ: chết. Với một xung khí ghê người và vô cảm.”
 Trước những khó khăn và sự đau đớn đang dằn vặt tâm hồn của người con gái này, cô đã tìm đến cái chết, cái chết nó đã trở thành một chủ đề được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm, tất cả các nhân vật khi chịu vào những tổn thương tinh thần to lớn nhất, thì họ đều muốn tìm đến cái chết. Cái chết đã trở thành phương án mà họ đã lựa chọn để giải thoát cho chính cuộc đời của mình.
 Trước những ảnh hưởng của tổn thương tinh thần, tình yêu vẫn nảy nở, sức sống mạnh mẽ vẫn đang tràn đầy. Trước những đau đớn khi người yêu của mình ra đi Karami vẫn cố gắng tiếp tục sống và nghiên cứu lại câu chuyện 98 và đó là lý do cô đã quen được những người bạn là Sui, Saki, Otohiko…Sự sống vẫn đang nảy nở và ngập tràn trong con người này: “Tôi lại cảm thấy có một dòng chảy nào đó đang cuồn cuộn trong cơ thể mình. Là cái gì đó đang cố hết sức. Là cái gì đó tựa như sự ngờ vực đã có từ thuở ấu thơ, tĩnh lặng, trong cái cơ thể này. Như là rất nhiều điều tôi đã suy nghĩ cả ngày lẫn đêm khi Shoji mất. Là hình bóng gương mặt Sui, là nụ cười của Saki và Otohiko, là tâm trạng nuối tiếc mùa hạ. Là niềm đau làm người, tôi luôn cảm nhận thấy bên trong con người Sui, mà cũng chính là niềm đau của bản thân tôi. Sự trào dâng kì lạ của những cảm xúc không sao kìm hãm được. Tôi nuối tiếc. Cái ánh nắng chói chang, gay gắt, mặt nước hồ lấp loáng ấy, bàn tay ấy và cảm giác nắm chặt của nó, tiếng mái tóc loà xòa trong gió, mùa hạ, mùa hạ, của buổi đầu gặp gỡ, Sui, và sắc màu của cái không gian luôn ở đó, bên Sui, như luôn rung động, và cái nơi mà sinh mệnh ấy đang tìm đến.”
 Đến Sui một cô gái có số phận bất hạnh nhưng lại là người có tính cách mạnh mẽ, lạc quan và yêu hết mình. Trước tình yêu của mình với Otohiko dù biết đó là một việc làm sai trái, nhưng cô vẫn luôn có hy vọng về tình yêu của mình, tình yêu sự cống hiến, về tuổi trẻ, vẫn luôn nảy nở và tồn tại trong con người của cô. Chính mối tình ngang trái bất hạnh đã dần đẩy Sui vào con đường cùng không lối thoát. Sui và Otohiko không tỏ ra yếu đuối, dám theo đuổi và đấu tranh để bảo vệ tình yêu cho mình. Họ từng quyết định bỏ đi Boston sinh sống cùng nhau để sống “cuộc đời bình thường” có nhau, cố tình quên đi sự thực đầy phũ phàng.
 Tuy nhiên họ vẫn bị dày vò, day dứt với nỗi đau không thể vứt bỏ.  Trái tim loạn nhịp của Sui và Otohiko sẽ chỉ có thể dẫn họ xuống vực thẳm, nhưng nhờ có sự xuất hiện của nhân vật Kazami, tình thế đã thay đổi hẳn. Trước những dồn nén về tinh thần, cô vẫn luôn mạnh mẽ, dù đôi khi dường như cô không tìm ra lối thoát và muốn tìm đến cái chết, nhưng những người bạn luôn lắng nghe và có sự đồng cảm với cô như Karami và chị gái là Kaki đã giúp cô vượt qua được những giây phút hụt hẫng như thế. Tình yêu luôn tràn ngập trong cuộc đời của nhân vật này, dù rơi vào mối quan hệ loạn luân, nhưng khi đánh giá vấn đề theo một khía cạnh khách quan chúng ta có thể thấy rằng, cô là một người có trái tim biết yêu thương, và luôn muốn dành tình cảm của mình tới Otohiko…
Đứng trước bờ vực của sự sống và cái chết, trước hành động tự tử của mình Sui vẫn tìm thấy được niềm vui để mình sống xót khi bên cạnh có Karami…
 Cô vẫn tiếp tục cố gắng phấn đấu, và bức thư khi viết cho Karami đã thể hiện được niềm tin vẫn tiếp tục sống và sẽ chinh phục được những tổn thương tinh thần trong quá khứ. Có thể thấy rằng nguồn sáng để giúp cho nhân vật này cố gắng sống tiếp đó là nhờ có Kazami, khi nhân vật tôi đã là nguồn sáng tháo gỡ những rắc rối trong chính con người của Sui, luôn bên cạnh, và là nguồn động viên để cô vượt qua đang những rằng xé trong chính tâm hồn của người con gái này: “Nói gì thì nói, cậu là con người rắn rỏi. Cậu không bao giờ làm những việc xuẩn ngốc. Và dù có ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cuối cùng, rồi cậu cũng sẽ nở một nụ cười, một nụ cười chiến thắng và lạc quan. Cậu có trong mình thứ sức sống mãnh liệt và có cả tài năng nữa. Tôi tin là như vậy đấy.Trong một tháng ở bên cậu, tôi có thể khẳng định rằng cậu đàng hoàng hơn bất cứ ai, cho dù đôi lúc cậu có làm người khác khó xử.”
 Những lời tâm sự thật lòng và chân thành nhất đã được thể hiện mạnh mẽ trong chính tác phẩm, với cách khám phá và đi sâu vào nội tâm của nhân vật, tác giả dường như đã tìm ra được lối viết đầy chất nhân văn, các nhân vật dường như cố gắng thoát khỏi vực thẳm của sự cô độc… Những nguồn sống mới đang dần nảy nở và tồn tại trong sâu thẩm của mỗi con người. Từ đó nó để cho người đọc có một cách nhìn nhận mới về câu chuyện, nó không chỉ đơn thuần là câu chuyện nói về sự đau đớn, những nỗi cô đơn… mà qua đó nó còn nói lên được sự sống mạnh mẽ, và sức sống trường tồn của mỗi nhân vật trong tác phẩm.
Khi kết thúc câu chuyện tác giả đã có một kết thúc mở để cho người đọc nhìn nhận ra vấn đề khi một tương lai tươi sáng của chính những nhân vật của mình đang xây dựng, tình yêu mới cũng đang nảy nở, tình bạn ngày càng bền chặt, và Sui cũng tìm ra lối đi cho chính bản thân mình… Lời nguyền bởi câu chuyện 98 đã được giải thoát…

Tác phẩm đã bao quanh những vấn đề về cái chết, tình yêu và những nảy nở tinh thần vẫn đang tồn tại và len lỏi trong những hạn hẹp của cuộc sống đời thường, bên cạnh những đau thương và mất mát to lớn về tinh thần, nhân vật cũng được sống trong những tình cảm chân thành và gần gũi nhất…. Đó là một lối viết đầy chất nhân văn để đưa tác phẩm của Banana Yoshimoto đạt được đỉnh cao trong nền văn học Nhật Bản.

Đây là tác phẩm thành công nhất khi đã xoáy sâu vào dòng diễn biến tâm lý của nhân vật từ đó làm nên được những thành công to lớn về chủ đề bao trùm lên tác phẩm: Đó là một thế hệ trẻ của Nhật Bản, khi phải sống trong một xã hội hiện đại. họ phải đương đầu với những sóng gió về tinh thần… nhưng sự mạnh mẽ và niềm tin vẫn giúp cho họ vượt qua được mọi thử thách.

Blogger templates

Blogger news

Blogroll

About

Popular Posts

Featured Posts