Truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi” của Akutagawa Ryunosuke và truyện ngắn “Đi mãi trên đường của Phan Triều Hải .

Leave a Comment

Văn học là loại hình nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu. Mọi đề tài cũng như cảm hứng của văn học đều bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống, thông qua sự sáng tạo, hiểu biết, tài năng của nhà văn, văn học phản ánh một cách trực tiếp hoặc hình tượng hóa hiện thực, những khía cạnh khác nhau của cuộc sống nhằm truyền tải những vấn đề, quan điểm, ý niệm hay triết lí nhân sinh nào đó về cuộc sống, con người.
Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống mang tính chủ quan, còn sự thể hiện, phản ánh vào các tác phẩm văn chương lại mang đậm màu sắc cá nhân, thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Vậy, trong văn chương có phải lúc nào cũng đảm bảo được “tính chân thực” tuyệt đối của hiện thực hay không?  Và nếu không thì những tác phẩm như vậy có ý nghĩa gì và mang lại lợi ích gì cho con người?
Để trả lời câu hỏi này, ta xét trong một trường hợp cụ thể, tác phẩm “ Bốn bề bờ bụi” của Akutagawa Ryunosuke được xem là một tác phẩm thể hiện sự hoài nghi của con người vào sự thật tuyệt đối, thậm chí là sự bất lực của con người trong việc đi đến cùng của sự thật.
Con người được xem là loài sinh vật có khả năng chinh phục mạnh mẽ nhất, vậy vì sao trong tác phẩm này lại thể hiện sự hoài nghi, bất lực của con người trong tìm kiếm sự thật? Nó có chân thực không, hay chỉ là sự hư cấu, tưởng tượng của tác giả?
Ngay trong phần mở đầu của truyện ngắn, từ những lời khai của các nhân chứng trong một vụ án mạng đã gợi ngay cho người đọc liên tưởng đến những câu chuyện mang màu sắc trinh thám của Shelock Homel. Tuy nhiên, theo đến cùng mạch truyện, Akutagawa Ryunosuke không thỏa mãn độc giả bằng một kết quả mang tính bất ngờ, đột phá như trong các câu chuyện trinh thám thường thấy mà tạo ra sự hoài nghi với một cái kết bị bỏ ngỏ. Càng đi sâu vào câu chuyện thì sự tò mò, mơ hồ càng đậm đặc, chân tướng sự việc không những không được làm sáng tỏ mà những chi tiết, những lời thú tội đầy bất đồng, mâu thuẫn của các nhân vật càng làm cho độc giả thấy “ rối loạn”, không hiểu việc gì đã xảy ra, và băn khoăn rốt cuộc lời khai của ai mới là sự thật, hướng khai thác của truyện ngắn không theo lí tính mà theo cảm tính, chủ quan.
Sự xuất hiện của nhiều nhân vật trong một dung lượng truyện ngắn là yếu tố làm nội dung cốt truyện bị mờ hóa, chân tướng của sự thật trở nên mơ hồ, bởi,  người kể chuyện càng đông, càng nhiều điểm nhìn thì sự kiện càng bị mờ hóa, câu chuyện càng rối rắm. Truyện ngắn “Bốn bề bờ bụi” có đến tám nhân chứng đóng vai trò kể chuyện, trong đó gồm người kể chuyện giấu mặt với vai trò khá mờ nhạt, người này chỉ làm công việc sắp xếp, thông báo tối thiểu nhất về lời khai của các nhân vật; Lời khai của các nhân chứng, những người ngoài cuộc là người đốn củi, nhà sư, người sai nha và bà mẹ của nhân vật người vợ với quan kiểm soát.
Lời khai của những người ngoài cuộc không làm sáng tỏ hay cung cấp được những chi tiết nào liên quan đến vụ án mà chỉ đơn giản làm cho độc giả biết thêm những thông tin, đặc điểm về các nhân vật chính như: hình dáng, tính cách, xuất thân… không ai trong số họ biết được tường tận của sự thật vụ án vì họ chỉ thấy kết quả cuối cùng, không tham gia vào diễn biến sự việc, cùng với đó là những suy đoán cảm tính, họ chỉ dựa vào những gì họ biết trước đó, và sự chứng kiến trước hoặc sau khi vụ án xảy ra mà kể lại, và dù nói ra hay không thì họ đều nghiêng về suy đoán rằng kẻ giết người nhất định là tên trộm, tuy nhiên lại không hề có căn cứ nào. Do đó, chân tướng vụ việc vẫn là một câu hỏi.
Khi xuất hiện lời khai của những người trong cuộc gồm: tên trộm, người vợ, người chồng, người đọc có cơ sở để tin rằng chân tướng rồi sẽ hé mở, nhưng thực tế lại trái ngược với suy nghĩ, lời khai, lời thú tội của các nhân vật này hoàn toàn mâu thuẫn, tạo cảm giác ta đang nghe kể lại những câu chuyện khác nhau. Lời kể của các nhân vật khá chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có sự mâu thuẫn, bất đồng. Do mỗi người có một cách kể nên dù có sự hỗ trợ của điểm nhìn bên trong thì sự thật vẫn hoàn toàn bị khuất lấp, hơn nữa còn làm cho nhận thức về vụ án rối đến cực điểm.
Và điều đặc biệt khó hiểu là họ đều tự nhận mình là hung thủ gây ra cái chết cho người chồng. Tên cướp nói rằng người chồng bị hạ thủ trong cuộc giao đấu danh dự cuối cùng giữa những người đàn ông, người vợ thì thú nhận đã giết người chồng để chấm dứt nỗi ô nhục, đau khổ cho bản thân và cho chính người chồng, còn phần hồn của người chồng thì một mực khẳng định là do anh ta tự sát sau khi đấu kiếm với tên cướp và chứng kiến sự phản bội của người vợ.
Điều này khá kì lạ, bởi trong thực tế, hung thủ giết người thường có xu hướng che giấu tội lỗi của mình bằng những bằng chứng ngoại phạm. Ở đây, các nhân vật, kể cả người bị giết ( người chồng) và những người bị tình nghi ( người vợ và tên trộm) đều tự nhận tội lỗi về mình trong tâm trạng riêng, day dứt có, dằn vặt, đau khổ có hay sự bất cần, buông xuôi. Do đó, dù có rất nhiều tình tiết đáng nghi trong lời kể, sự bất đồng trong lời khai, nhưng chỉ nhìn vào cảm xúc, thái độ, tâm trạng trong lời kể của họ thôi thì độc giả cũng đã bị cuốn hút vào những câu chuyện riêng đó, cùng với đó là sự đồng cảm, xúc động hay tình cảm thương xót cho những dòng hồi ức, tâm sự riêng tư, dù rằng họ có thể là kẻ giết người.
Trong tương quan với các thiết chế chính trị, pháp luật, vấn đề quan tâm hàng đầu trong vụ án này là làm sáng tỏ chân tướng vụ việc, tìm ra kẻ giết người và trừng phạt họ bằng những hình phạt thích đáng nhằm bảo vệ công lí, tính công bằng của xã hội. Còn văn học mối quan tâm hàng đầu lại hướng vào con người cá nhân, những xúc cảm, trạng thái riêng tư, những phần bí ẩn, lẩn khuất bên trong con người. Đó cũng là cái thế mạnh, cái nhân văn mà chỉ có trong văn học, văn học dẫn dắt độc giả vào thế giới nội tâm đầy huyền bí, phức tạp của con người để thấy được sự vận động, diễn biến của các trạng thái cảm xúc, cội nguồn chi phối mọi hành động thực tiễn, từ đó có thể nhận thức được sự thật dưới điểm nhìn của cảm xúc, tình cảm, làm cho cách nhìn nhận sự vật, sự việc bao quát hơn, nhân văn hơn, con người hơn.
Như vậy, văn học mang lại cho người đọc, người nghe những nhận thức chủ quan nhưng lại hết sức tự nhiên, chân thực.
Trở lại với truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi”, Akutagawa Ryunosuke không nhằm làm sáng tỏ chân tướng vụ việc bằng những nhận thức lí tính mà đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, những xúc cảm thầm kín của chính những nhân vật trong vụ án, tìm thấy “ con người bên trong con người”. Mục đích cuối cùng của nhà văn không hướng đến sự quy kết, khẳng định đúng- sai mà đánh động vào phần tình cảm ở độc giả, khơi dậy ở độc giả thấu hiểu, đồng cảm với nhân vật mà xa hơn là với con người trong xã hội.
Ở đây, ta không xét đến những chi tiết vô lí, những điểm đáng ngờ, mâu thuẫn của lời khai mà chỉ khai thác, phám phá câu chuyện riêng của mỗi nhân vật để xem xét, làm sáng tỏ tính chân thực trong thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt.
Tên trộm tuy có những hành động bất lương, ngọn nguồn gây ra mọi bi kịch truyện, đáng trách, đáng lên án. Tuy nhiên, xét một cách công bằng, anh ta cũng là một con người có “ khí phách” ( giao đấu công bằng với người chồng, tuyệt nhiên không giành lợi thế về phía mình), dám làm dám nhận ( thể hiện trong thái độ khẳng khái khi thú tội), cũng có những khát khao về hạnh phúc ( muốn người đàn bà ( người vợ) theo mình). Nhưng cuối cùng lại nhận lấy sự thất vọng tột độ khi đã dành chiến thắng trước người chồng nhưng người vợ của anh ta đã chạy trốn, đây là cách từ chối quyết liệt khi phải đi theo một tên trộm, cũng là người vừa mới gây ra mối ô nhục cho mình. Nhận tội trong tư thế “ hiên ngang”, tỏ thái độ sẵn sàng nhận mọi trừng phạt. Tuy nhiên, trong lời nói lại có sự buông xuôi trong tuyệt vọng, có nỗi cô đơn le lói của người vừa mới dạt dào hi vọng nhưng lại thất vọng trong cay đắng. Dù cố che giấu, cố tạo vỏ bọc mạnh mẽ nhưng  vẫn có thể nhận ra.
Ở người chồng là nỗi đau của sự bất lực ( là một người đàn ông, hơn nữa lại ở địa vị của người chồng phải chứng kiến cảnh tên trộm làm nhục vợ mình mà không thể làm gì để bảo vệ, ngăn cản), và tận cùng của nỗi đau trong tâm hồn của người đàn ông là bi kịch bị chính người vợ của mình phản bội.
Là con người sống tình nghĩa nên khi biến cố xảy ra, anh ta đã an ủi người vợ (ra hiệu bằng mắt) nhưng đáp lại anh ta lại là sự phản bội, trở mặt
của người vợ, hơn thế nữa chị ta còn muốn tên cướp giết chết mình để tự do đi theo hắn ta. Trong sự đau đớn, bế tắc đã tìm đến cái chết để kết thúc khỏi mọi đau khổ.

Người vợ thì đau khổ, ê chề vì bị làm nhục. Là người có cá tính mạnh mẽ, nhưng xét đến cùng thì chị ta cũng chỉ là một người phụ nữ nên cũng có những yếu đuối, có những nỗi sợ hãi tất yếu. Sau khi bị làm nhục, bị ô uế phẩm tiết, chị ta đau khổ, cảm thấy mặc cảm, tội lỗi với người chồng, tìm đến người chồng như tìm đến nguồn động viên, an ủi, nhưng ánh mắt khinh miệt, coi thường của người chồng đã đẩy chị ta chìm sâu trong đau đớn tột độ, bế tắc trong bi kịch của chính mình. Uất hận, tủi nhục cho thân mình chị ta đã nghĩ đến cái chết để được giả thoát, nhưng người chồng đã chứng kiến tất cả sự ô nhục ấy nên chị ta đã giết chết người chồng sau đó sẽ tự kết liễu bản thân. Tuy nhiên, vào những giây phút quyết định thì bản năng ham sống lại run rẩy trước cái chết, không có đủ can đảm để tìm đến cái chết như suy nghĩ trước đó. Chị vợ đã bỏ đi trong nỗi đau và sự dằn vặt khủng khiếp.
Trôi theo dòng hồi ức, lời thú tội của các nhân vật, tạo cho người đọc cảm giác nạn nhân duy nhất của vụ án này không chỉ là người chồng _ người bị tước bỏ mạng sống mà cả ba người đều là nạn nhân của chính mình, họ đều bị giam hãm, cầm tù trong chính sự đau khổ, day dứt của bản thân, trong tâm hồn họ chất chứa những vết thương, những nỗi đau riêng, đều rơi vào bi kịch của chính mình. Do đó, dù có là hung thủ gây ra cái chết cho người chồng đi nữa thì họ đều đáng thương hơn đáng trách.
Hình tượng “ Bốn bề bờ bụi” khá độc đáo, vừa thể hiện sự tĩnh lặng, vắng vẻ của không gian, nơi diễn ra sự việc, dường như chân tướng của vụ việc bị cái vắng vẻ của không gian “ nuốt” trọn, để sự thật mãi là một ẩn số, một câu hỏi day dứt trong lòng người. Nhưng đồng thời, cái “ tĩnh” của không gian bờ bụi cũng làm nổi bật nên cái “ động” trong sự vận động của tâm lí, cảm xúc, làm cho cái người bên trong con người hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết; nó cũng là cái bộn bề của những suy tư, những đau khổ, dằn vặt, của những nỗi niềm sâu kín bên trong mỗi nhân vật.

Đọc truyện ta sẽ thấy rối tung bởi một loạt những chi tiết bất đồng, mâu thuẫn khiến cho sự thật bị mờ hóa. Và chính sự bỏ ngỏ trong đoạn kết có lẽ là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của Akutagawa Ryunosuke, chuyển hướng quan tâm của độc giả từ chân tướng của vụ án sang thế giới nội tâm của các nhân vật, từ sự hoài nghi vào sự thật sang sự cảm thông, đồng cảm với nhân vật. Và đây không phải một câu chuyện trinh thám nên mục đích của nhà văn không phải tìm kiếm sự thật cuối cùng, thỏa mãn sự tò mò của độc giả cái mà nhà văn hướng đến là tính nhân văn, hướng đến không chỉ giá trị trong phẩm chất con người mà còn trân trọng, đồng cảm với những nỗi đau, những tình cảm sâu kín bên trong con người.
Giá trị của truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi” là ở sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Bởi mục đích cuối cùng không phải sự phán quyết, khẳng định mà là sự cảm thông, thấu hiếu đối với những phần nội tâm sâu thẳm, những tình cảm, cảm xúc rất cá nhân ở bên trong con người. Truyện ngắn cũng thể hiện được mâu thuẫn gữa con người bên trong và con người bên ngoài cũng như mâu thuẫn bên trong chính con người; sự bất lực, yếu đuổi tất yếu của con người. Đồng thời, mang đến những nhận thức, bài học vô cùng nhân văn: Hãy đón nhận mọi việc, đánh giá con người một cách nhân hậu, vị tha hơn, hãy cố hiểu họ thay vì quá dễ dãi, tùy tiện đánh giá người khác vì ta không biết họ đã phải trải qua những gì.
Sở dĩ, cùng một vụ việc dưới sự chứng kiến của cả ba người nhưng lời thú nhận của học lại khác nhau bởi mỗi người có cách nhìn nhận, đánh giá về sự việc mang tính chủ quan, và sự thật trong mỗi người không hoàn toàn giống nhau, bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: quan điểm, tình cảm, tính cách, cách tiếp nhận sự việc…Do đó, mỗi lời khai lại là sự khúc xạ tâm lí, tình cảm mang tính cá nhân.

Con người chúng ta luôn tin tưởng vào cái gọi là sự thật tuyệt đối, chân lí khách quan mà đôi khi coi nhẹ cái chủ quan, những yếu tố mang tính cá nhân để tuyệt đối, khuôn mẫu hóa mọi sự việc, dễ dàng phán xét, quy kết đúng- sai, phải- trái. Nhưng, liệu thực sự có sự thật nào gọi là tuyệt đối không? Và cái sự thực, là chân lí đó có tuyệt đối trong mọi trường hợp không?
Theo tôi, mọi sự vật xung quanh cuộc sống con người chỉ mang tính tương đối, những thứ được nhiều người công nhận thì được quy ước là chân lí, là sự thật. Tuy nhiên, bên cạnh cái chung thì vẫn tồn tại những cái cá nhân mang tính riêng biệt, ta lại thường coi cái riêng biệt là lệch chuẩn, tiêu cực, nhưng chính cái cá biệt ấy lại phản ánh chân thực nhất về cuộc sống, về con người.
Ranh giới giữa phải- trái, đúng- sai thường không rõ ràng, nên mọi sự đánh giá về sự thật, về chân lí, suy cho cùng chỉ mang tính tương đối nên cần sự cẩn trọng trong đánh giá.
Sự thật trong văn học khác với những sự thật mang tính khách quan, chân lí của khoa học, chính trị, pháp luật ở chỗ nó không đặt điểm nhìn ở sự vật và hướng vào con người, lấy con người cá nhân, cá biệt làm trung tâm để  khai thác, tìm hiểu. Mà thế giới xung quanh con người lại đa dạng, đầy bí ẩn nên “sự thật” cũng mang tính đa dạng, không phải ở dạng cố định, chân lí.

Qua truyện ngắn này ta có thể khẳng định, mọi tác phẩm văn chương đều hướng tới hiện thực, và đều mang những nội dung, giá trị rất “ chân thực” , chỉ khác ở cách thức nhà văn trình bày, thể hiện và trong cách thức tiếp nhận, tư duy ở độc giả.
Ở những tác phẩm dường như sử dụng nhiều yếu tố sáng tạo, hư cấu tạo ra sự khó hiểu, hoang mang, hoài nghi như “ Bốn bề bờ bụi” thực chất lại mang đậm tính nhân bản, cái “ thực” ở đây không nằm ở tình tiết mà nằm trong  đời sống tâm lí của con người. Đây cũng là cái tinh tế, sâu sắc, nhân văn chỉ có ở văn học, quan tâm đến những cái rất cá nhân, rất con người. Ở những tác phẩm như thế, ta có không chỉ cảm nhận được cái “ chân thực” hết sức sâu sắc mà còn nhận thức được những giới hạn , những bất lực tất yếu của con người trong cuộc đời. Con người có khả năng nhận thức, tư duy, chinh phục mạnh mẽ, nhưng trong chính đời sống cá nhân vẫn tồn tại những thứ nằm ngoài giới hạn của con người, con người vẫn phải đối diện với những bất lực, sự bế tắc, mâu thuẫn, bất đồng trong chính con người của mình
Những tác phẩm văn chương nói lên giới hạn, sự vô vọng, bất lực của con người trong cuộc đời không phải để hạ thấp, tầm thường hóa khả năng và nhận thức của con người mà là cách thức nhà văn truyền tải những thông điệp, quan điểm, bài học để con người có thể  nhận thức, suy ngẫm. Từ đó tác động đến những hành động, cách ứng xử trong thực tiễn của con người.
Qua những tác phẩm văn chương như “ Bốn bề bờ bụi” con người có cách tiếp nhận sự vật sự việc mang tính nhân văn hơn, có những hướng khai thác đa dạng, sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt quan tâm hơn đến yếu tố con người trong xử lí tình huống.
Nó nhắc nhở, hướng con người đến con người, tạo được mối đồng cảm, sẻ chia giữa những con người, tức là hướng con người đến những giá trị nhân văn, nhân bản.
Ta không thể nhìn thấy lợi ích trực tiếp, nhanh chóng của các tác phẩm văn chương mà nó có sự thẩm thấu lâu dài, bền bỉ theo thời gian.
Ý nghĩa, bài học của các tác phẩm văn chương tác động đến nhận thức của con người,từ đó hình thành nên những cơ sở chi phối suy nghĩa và ảnh hưởng đến hành động và ứng xử trong thực tiễn. Mức độ tác động của văn học đến con người cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào cách tiếp nhận của từng người.
Qua các tác phẩm, con người có thể bắt gặp hình ảnh chính mình phản chiếu trong đó, văn chương chạm đến phần phần sâu thẳm trong con người, gọi tên đúng, tái hiện sống động, chân thực những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng phức tạp, riêng tư, khó biểu đạt thành lời. Từ đó dễ bắt nhịp được với cảm xúc thực, sự đồng cảm của độc giả. Con người sẽ tìm đến văn chương như cách đối diện với chính mình, giải tỏa tâm trạng, xoa dịu nỗi đau….
Mặt khác, văn chương bắt nguồn từ đời sống, xuất phát từ những cảm xúc, rung động của nhà văn từ cuộc sống nên có thể khơi dậy những tình cảm hoặc yêu thương, phẫn nộ, bi thương…
Văn chương còn có vai trò cảm hóa con người, nâng cao tính “ thiện”, khơi dậy những phần người trong con người thông qua sự tôn trọng, đề cao những phẩm chất người.
Cụ thể trong truyện ngắn “ Bốn bề bờ bụi”, ta thấy tên trộm có những hành vi tàn ác, bất lương nhưng vẫn tồn tại những phẩm chất rất “ người”

Văn học là  nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỷ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu không hiểu biết, cảm nhận thực tế về con người. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học.
Văn chương nghệ thuật dù có thể hiện sự bất lực, vô minh trong thế giới này thì cái đích cuối cùng mà nó hướng đến vẫn là con người, vì con người mà sáng tạo. Do đó, văn chương nghệ thuật giàu tính nhân văn.
Bản chất của cuộc sống này vốn là hữu hạn và vô minh, văn chương đã nhận thức được điều này, bằng sự hình tượng hóa hiện thực, văn chương nhắc nhở và trang bị cho con người những nhận thức về sự vô minh ấy để con người có sự tỉnh táo, bình tâm, vững vàng bản lĩnh hơn trước những biến động của cuộc sống; an ủi, động viên con người trước biến cố, trước sự ám ảnh của cái chết, tuyệt nhiên không phải để con người suy nghĩ tiêu cực, tuyệt vọng với cuộc sống.

      Lần đầu tiên đọc truyện ngắn “Bốn bề bờ bụi” tôi đã cho rằng nó rất “ kì lạ”  bởi, nó có phần mở đầu khá hấp dẫn của những câu chuyện trinh thám, tạo ra cảm giác mong chờ, hứng thú, hào hứng dự đoán cho diễn biến, kết thúc của câu chuyện. Tuy nhiên, kết thúc lại làm tôi cảm thấy hụt hẫng, khó hiểu vì không biết mục đích viết truyện ngắn này của tác giả là gì? Phải chăng còn phần hai mà tác giả chưa viết? Xong, chính sự hụt hẫng, tò mò thôi thúc để tìm hiểu, đọc đi đọc lại tác phẩm nhiều lần. Và kết quả là tôi có những nhận thức hoàn toàn trái ngược với ban đầu, tôi dẫn hiểu nó hơn, nhận thức được phần nào ý đồ mà nhà văn truyền tải, câu chuyện với dung lượng ngắn, ngắn đến bất ngờ nhưng truyền tải được nhiều thông điệp hết sức nhân văn. Đọc truyện ngắn này, cùng với việc tìm hiểu các nhân vật chính, tôi bỗng nhớ đến một câu nói của nhà văn Nam Cao trong tác phẩm “ Lão Hạc” và thấy thấm thía hơn bao giờ hết:  “ Chao ôi! đối với những người quanh ta, nếu như ta không cố tìm và hiểu họ thì ta chỉ thấy họ là những người gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ cho ta tàn nhẫn, không bao giờ thấy họ là những người đáng thương và không bao giờ ta thương”






0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blogger templates

Blogger news

Blogroll

About

Popular Posts